Những sự thật không thể chối bỏ (phần 13) -
Nướng dân đen trên ngọn lửa
hung tàn!
Bài viết
này tôi xin mượn lời của Cụ Nguyễn Trãi trong tác phẩm “Bình Ngô Đại
Cáo” để làm tựa đề cho nội dung đề cập. Đó chính là tội ác chiến tranh
của ông Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam. Trong khuôn khổ những bài viết
trước đây của tôi, tôi đã trình bày các luận điểm xung quanh việc lừa dối dân
tộc để tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam, bán biển đảo, đất đai để
lấy vũ khí nhằm gây chiến tranh ý thức hệ và âm mưu triệt tiêu nội lực dân tộc
của ông Hồ. Để thấy rõ hơn tội ác chiến tranh của đảng cộng sản và đứng đầu là
ông Hồ, chúng ta cùng đến với bài này.
Như chúng ta đã biết năm 1946, Pháp
thương nghị với Hồ Chí Minh, sau khi ông này tuyên bố giải tán đảng Cộng Sản
Đông Dương và thành lập chính phủ liên hiệp quốc gia với Quốc Dân Đảng và Đồng
Minh Hội. Hai bên đã ký hai hiệp ước: Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny (tháng 3/1946) và
Hiệp Ước Tạm Thời Moutet (tháng 9/1946). Tuy nhiên ba tháng sau, tháng 12/1946,
ông Hồ Chí Minh trở mặt phát động chiến tranh võ trang, và đã trắng trợn vi
phạm các hiệp ước quốc tế.
Lúc này chính phủ Liên hiệp Việt Nam đã
giải tán. Sau khi quân đội Trung cộng rút về nước, Cộng Sản thẳng tay tàn sát
các cán bộ Quốc Dân Đảng và Đồng Minh Hội. Như vậy chính phủ liên hiệp chỉ là
bức bình phong để thương nghị với Pháp. Và sự giải tán Đảng CS Đông Dương cũng
chỉ là một chiến thuật ngụy trang và dối trá (đã được chứng minh
trong phần 4 và phần 11)
Vì đảng CS ký hiệp ước không phải để thi
hành hiệp ước, nên chính phủ Pháp quyết định sẽ không thương nghị với Hồ Chí
Minh nữa. Hơn cả là cả Mỹ và Pháp đều nhận ra cái đuôi cộng sản của ông Hồ (đã
chứng minh ở phần 12). Cho nên năm 1947,
Tổng thống Xã Hội Vincent Auriol chủ trương thương thuyết với phe Quốc Gia Việt
Nam để trả độc lập cho Việt Nam. Hai bên đã ký 3 hiệp ước: Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ
Long (tháng 12/1947), Thông Cáo Chung Vịnh Hạ Long (tháng 6/1948) và Hiệp Ước
Élysée ký kết giữa Tổng Thống Auriol và Quốc Trưởng Bảo Đại tháng 3, 1949.
Qua tháng sau, tháng 4/1949, Quốc Hội
Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị để sát nhập Nam Phần vào lãnh
thổ quốc gia Việt Nam, độc lập và thống nhất.
Hai tháng sau, tháng 6/1949, Quốc Hội
Pháp phê chuẩn Hiệp Định Élysée. Từ đó, chiếu công pháp quốc tế, Việt Nam được
hoàn toàn độc lập, các hiệp ước thuộc địa và bảo hộ ký kết với Pháp hồi cuối
thế kỷ 19, đã bị Hiệp Định Élysée bãi bỏ.
Mặc dù vậy, đảng CS đã phủ nhận nền độc
lập này và đã phá hoại nền thống nhất này. Và bắt đầu từ đây đảng cộng sản bắt
đầu đem lại một trang lịch sử u tối mang đậm tính chết chóc cho dân tộc, gây
tang thương và kiệt quệ chỉ nhằm nhuộm đỏ và thực hiện âm mưu Hán hóa, triệt
tiêu nội lực dân tộc.
A. Cuộc Chiến với Pháp là không cần
thiết:
Vấn đề tôi xin đề cập đó là cuộc chiến
tranh với Pháp 9 năm mà đỉnh điểm là “Chiến thắng” Điện Biên Phủ của đảng cộng
sản. Cuộc chiến có cần thiết không? Tại sao lại có nó? Đó là vấn đề cần làm
sáng tỏ.
Tôi xin khẳng định cuộc chiến chống Pháp
9 năm là không cần thiết và nó chỉ là cuộc chiến nhằm nhuộm đỏ Việt Nam theo
lệnh Liên Xô, Trung cộng, tự đánh bóng bản thân với dân tộc “Có công
đánh Pháp giải phóng dân tộc” để loại bỏ hoàn toàn các đảng phái chính
trị khác nhằm thâu tóm độc tài. Và cũng là để tìm đồng minh công nhận sau khi
không được các nước công nhận khi cướp chính quyền một cách trái phép đối với
chính quyền ông Trần Trọng Kim. Tôi xin chứng minh những luận điểm đó sau đây.
Đầu tiên, chúng ta cần nhớ lại
trong phần 12 tôi đã chứng
minh việc ông Hồ lúc đầu không có y định “chống Pháp”, trái lại ông ta và đảng
cộng sản còn muốn kết thân với Pháp để được công nhận chính phủ bất hợp pháp
sau khi cướp công của chính phủ hợp hiến đã được Pháp và Nhật đồng ý trao trả
độc lập của ông Trần Trọng Kim. Cuộc chiến sau này chỉ có ý nghĩa khi Pháp đã
không còn là Pháp cộng sản mà chính là Pháp dân chủ. Chính phủ Pháp dân chủ
không chấp nhận ông Hồ vì phát hiện ra ông Hồ là cộng sản. Trong thế đường cùng
không ai thừa nhận, chỉ còn cách theo Liên Xô, Trung cộng để gây chiến với Pháp
mới được “đồng minh” này thừa nhận. Và cũng để tiếp tay cho công cuộc thâu
tóm Việt Nam dần dần vào tay Trung cộng (phần 9 và phần 10 tôi đã chứng
minh). Vậy thì thực chất cuộc chiến 9 năm là không cần thiết nếu ông Hồ biết
chấp nhận đa nguyên, đa đảng, dân chủ về hệ thống chính trị. Chính người Pháp
ủng hộ một chính phủ dân chủ ở Việt Nam sau 1945.
Thứ hai, cuộc chiến được hiểu
là không cần thiết vì mục đích chúng ta là “Giải phóng dân tộc” nhưng thực chất
của cuộc giải phóng dân tộc lại bị lợi dụng bởi việc tuyên truyền cho chủ nghĩa
cộng sản tại Việt Nam. Nhiệm vụ chống Pháp được hiểu chính là việc hoàn thành
nhiệm vụ được Liên Xô, Trung cộng và Quốc Tế Cộng sản giao phó. Bằng chứng là
ngay sau khi kết thúc trận chiến tại Điện Biên Phủ năm 1954, trong cuộc họp
mừng chiến thắng, chính ông Hồ Chí Minh đã tuyên bố trước hội nghị “Nhận
chỉ thị của Quốc Tế Cộng sản giải quyết vấn đề cách mạng ở nước ta, tôi đã hoàn
thành nhiệm vụ..”. Và nó đã được chính nhà nước Việt Nam công bố ra.
Bạn đọc có thể tìm thấy lời tuyên bố này tại website của Mặt Trận tổ quốc Việt
Nam (đại diện cho đảng cộng sản) tại link sau: http://www.
mattran.org.vn/home/gioithieumt/TLLS001.html
Tại sao lại là “hoàn thành chỉ
thị của quốc tế cộng sản” mà không phải là “hoàn thành giải phóng dân
tộc, dân chủ chủ cho nhân dân”? Đó chính là việc ham hố quyền lực của ông Hồ
bằng việc làm tay sai cho chủ nghĩa cộng sản nhằm chống lại hệ thống dân chủ
đang phát triển sau chiến tranh thế giới lần 2.
Thứ ba, trên thực tế Liên Xô và Trung cộng rất
muốn Việt Minh chống Pháp. Liên Xô có mục đích của họ đó là cộng sản hóa Việt
Nam, còn Trung cộng thì muốn cộng sản hóa và Hán hóa nước ta. Để minh chứng cho
điều này tôi xin được phép trích đoạn văn trong cuốn sách “Đường dài xã
hội chủ nghĩa” viết bởi N. Badasov – một nhà nghiên cứu lịch sử tại
Liên Xô – đảng viên đảng cộng sản Liên Xô (Đã được giới thiệu ở phần 12):
“Chúng ta phải ngăn chặn làm sóng tư bản
hóa tại Đông Nam Á Châu mà căn bản bắt đầu từ Việt Nam. Chúng ta có một đồng
chí tốt và rất trung thành với chúng ta như Nguyễn Ái Quốc. Chúng ta cần phải
giúp họ khẳng định ý chí đấu tranh với người Pháp. Tại Việt Nam không cho phép
tư bản tồn tại, chỉ có một chủ nghĩa duy nhất là chủ nghĩa vô sản ….”.
Đoạn trích trong trang 246 đã cho thấy
người Liên Xô rất mong muốn ông Hồ và đảng cộng sản làm nhiệm vụ chống lại tư
bản hay nói cách khác là chống lại dân chủ để phát tán chế độ cộng sản. Vậy thì
cuộc chiến với Pháp đâu phải là cuộc chiến “giải phóng dân tộc” như đảng cộng
sản và ông Hồ rao giảng? Nó chỉ là cuộc chiến tranh được khởi xướng bởi sự hiếu
chiến của cộng sản Liên Xô.
Thứ 4, Trung cộng coi cuộc chiến với người
Pháp sẽ giúp họ lấy lại được đất đai mà họ đã xâm lấn bất hợp pháp tại Việt Nam
đã bị người Pháp phát hiện, lấy lại cho Việt Nam thông qua hiệp ước Pháp-Thanh.
Đây là một trong những lý do mà người Pháp dân chủ cũng là “kẻ thù” trong chiến
lược bành trướng, chiếm đất Việt Nam của Trung cộng. Vì vậy họ cần Việt Minh-Cộng
Sản thân Trung cộng chiến đấu với Pháp, chiến thắng hay thất bại của Việt Minh
không quan trọng bằng việc Trung cộng sẽ chiếm lại được phần đất xâm lấn Việt
Nam. Bằng chứng là trong cuốn sách của tác giả Hà Cẩn với tiêu đề “Mao
Chủ tịch của tôi” được tôi giới thiệu ở Phần 9 đề cập đến vấn
đề này như sau tại trang 157:
“Người Pháp đã giúp An Nam chiếm đất đai
của Trung Hoa. Việt Minh là
đồng minh của Trung Hoa. Trung Hoa đã độc lập, Việt Minh chiến tranh với Người
Pháp sẽ giúp Trung Hoa đòi lại những phần đất này…”
Thực chất thì Việt Nam của chúng ta đâu có chiếm đất của Trung cộng. Người
Pháp chỉ muốn bảo vệ quyền lợi hợp pháp về lãnh thổ Việt nam qua hiệp ước
Pháp-Thanh. Trung cộng rất muốn Việt Minh chống Pháp để có được đồng minh lấy
cắp đất nước ta dễ dàng hơn.
Đến đây chúng ta nhận ra một điều là: Người Pháp tuy đô hộ nước ta nhưng
không lấy một tấc đất của Việt Nam, ngược lại họ đã giúp Việt Nam giữ đất giống
như Pháp làm với Thái và Campuchia, Lào. Còn ngược lại người cộng sản luôn tự
xưng là “Kháng chiến chống Pháp, giải phóng dân tộc” lại là kẻ
tiếp tay cho Trung cộng ăn cắp đất đai của chúng ta. Đây là một hành động cho
thấy bản chất bán nước, làm gián điệp cho Trung cộng của ông Hồ mà tôi đã chứng
minh ở phần 9, phần 10.
Thứ 5, để khẳng định thêm cho cuộc chiến với Pháp chỉ đơn
thuần là cuộc chiến ý thức hệ và cộng sản Việt Nam chỉ là một hệ thống tay sai
cho Cộng sản Quốc tế, chúng ta nhận thấy trong cuộc chiến tại Điện Biên Phủ,
chính tướng Vi Quốc Thanh của Trung cộng tham gia chỉ huy các trận đánh đó. Để
minh chứng cho việc Vi Quốc Thanh tham gia chiến tranh với Pháp tôi xin gửi tới
bạn đọc bằng chứng được chính quyền cộng sản công bố. Ví dụ như trong bài viết
về Vi Quốc Thanh trên website của sở Khoa học và công nghệ tỉnh Nghệ An:
“Mối quan hệ tốt đẹp giữa Bác Hồ với Vi Quốc Thanh được thiết lập từ hồi
kháng chiến chống Pháp đầu những năm 50 của thế kỷ XX - khi mà Vi Quốc Thanh
sang làm Trưởng đoàn Cố vấn quân sự Trung Quốc tại Việt Nam theo sự phân công
của Đảng và Nhà nước Trung Quốc.”
(Link bài viết: http://www.ngheandost.gov.vn/JournalDetail/ar1367_Gia_dinh_Vi_Quoc_Thanh_voi_ba_lan_sinh_nhat_Bac_Ho_o_Quang_Tay,_Trung_Quoc.aspx).
Ngoài Liên Xô và Trung cộng thì bằng
chứng về một cuộc chiến có sự tham gia con người của các đảng cộng sản khác
cũng cho thấy tính chất “Quốc tế Cộng sản hóa” cho cuộc chiến với Pháp. Sau đây
là bài viết “Những chiến binh quốc tế trong lực lượng Việt Minh” về
một người Mã Lai từng tham chiến cho Việt Minh theo chỉ đạo của cộng sản quốc
tế:
“Ông Chan Mun Boy với giọng chậm rãi,
chân chất như người miền Tây thực thụ kể câu chuyện đời ông: “Tôi sinh ra tại
bang Singapore thuộc liên bang Malaysia vào năm 1925. Năm 1945 tức năm 20 tuổi,
tôi được vinh dự kết nạp vào Đảng Cộng sản Malaysia. Khi ấy phong trào cộng sản
đang lan rộng khắp Đông Nam Á và cũng bị thực dân đế quốc đàn áp dữ dội. Với
tinh thần cộng sản quốc tế, năm 1947 tôi được Đảng Cộng sản Malaysia giao một
nhiệm vụ quan trọng: tham gia cùng các cán bộ cách mạng VN ở hải ngoại đưa năm
chiếc thuyền chở 150 tấn vũ khí, quân trang, quân dụng vượt eo biển Malacca cập
bến tại căn cứ Mai Ruột (Thái Lan) viện trợ cho nhân dân VN tiến hành kháng
chiến chống Pháp... Là một “chiến binh quốc tế”, Chan Mun Boy không từ nan bất
cứ một nhiệm vụ gì... Khi mới đặt chân lên bờ kênh Vĩnh Tế, Hà Tiên, có ai đó
reo lên: “Về tới VN rồi!”, nhưng niềm vui chẳng được bao lâu. Ngay khi đặt chân
lên biên giới, chúng tôi lại phải tiếp tục chiến đấu ngay vì bị tàu sắt và máy
bay Pháp tập kích liên tục, nhờ có bộ đội chủ lực Hà Tiên hay tin kéo ra ứng
cứu nên cả tiểu đoàn được đưa về tập kết an toàn...”
(bài viết được đăng trên website của diễn đàn quân sự Việt Nam cộng
sản: http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=457.10).
Thứ 6, thực chất người Pháp sau khi chiến
tranh thế giới lần hai bị kiệt quệ và họ không muốn chiến đấu tại Việt Nam nữa.
Cùng với xu thế trao trả thuộc địa mà Mỹ dẫn đầu, người Pháp không có chủ
trương đô hộ Việt Nam, người Pháp đã thừa nhận việc này qua đoạn văn của tác
giả đảng viên đảng cộng sản Pháp - D. Olivier “Chính phủ Pháp với sự thất
bại của đảng cộng sản Pháp không muốn có chiến tranh tại Đông Dương nhưng họ
phạm sai lầm là không công nhận chủ nghĩa cộng sản ở những nước này.” (trích
trang 90 cuốn “Đông Dương và người Pháp” – xuất bản năm 1987).
Chúng ta nhận thấy 2 điều ở đây, người
Cộng sản – tác giả cuốn sách thừa nhận chính phủ Pháp không muốn chiến tranh.
Điều này minh chứng cho lập luận của tôi về cuộc chiến với Pháp là cuộc chiến
quá vô nghĩa của đảng cộng sản là hoàn toàn đúng khi bản thân người khác chiến
tuyến không muốn chiến tranh. Còn điều thứ hai tác giả này nói đến việc không
công nhận cộng sản là sai lầm chỉ đơn thuần là cái nhìn hết sức bình thường của
người cộng sản – họ muốn được nắm quyền.
Thứ 7, chính người cộng sản Việt Nam cũng
thừa nhận người Pháp sau chiến tranh không còn khả năng nắm quyền. Họ đã chỉ
đích danh người Nhật là kẻ thù. Nhưng thực chất thì Nhật lại trao trả độc lập
cho chính quyền Trần Trong Kim và sau đó thì đầu hàng đồng minh (phần 12)
Người cộng sản đã thừa nhận điều này như
trên trang web lịch sử Việt Nam của đảng cộng sản viết:
“Trong đêm 9-3, quân Nhật đồng loạt nổ
súng và căn bản nhanh chóng đè bẹp sự kháng cự của đối phương. Đến chiều ngày
10-3 thì quân Pháp đầu hàng, phát xít Nhật làm chủ các vùng đô thị lớn như Hà
Nội, Hải Phòng, Huế, Sài Gòn và nhiều tỉnh lỵ… Những đơn vị quân Pháp còn cố
thủ ở Cà Mau, Biển Hồ (Campuchia), một số vùng ở Bắc Đông Dương, cũng lần lượt
bị thất thủ, chỉ còn một số tàn quân chạy qua biên giới Việt Trung. Với sự kiện
này, lực lượng quân sự Pháp hoàn toàn tan rã, bộ máy thống trị của thực dân
Pháp đầu hàng, bị cầm tù hoặc đang tâm làm tay sai cho phát xít Nhật. Trên thực
tế toàn bộ Đông Dương đã trở thành thuộc địa của phát xít Nhật”.
Đây là links bài viết: http://www.lichsuvietnam.vn/home. php?option=com_content&task=view&id=269&Itemid=33).
Kết luận: Bằng các chứng cứ thực
tế, khách quan và được thừa nhận bởi chính những người cộng sản chúng ta thấy
cuộc chiến với người Pháp là không cần thiết. Ông Hồ và đảng cộng sản chỉ muốn
thông qua nó thiết lập đế chế đỏ tại Việt Nam một cách hợp pháp và cũng là thực
hiện âm mưu Hán hóa, giúp Trung cộng dễ dàng thâu tóm Việt Nam dần dần. Cuộc
chiến này cung để lại những hậu quả nặng nề về cả con người lẫn vật chất mà cho
đến nay chúng ta vẫn đang chịu hậu quả.
B. Nội chiến phi nghĩa:
Ngoài cuộc chiến không cần thiết với
người Pháp thì tội ác chiến tranh của ông Hồ và đảng cộng sản còn được thể hiện
qua cuộc chiến tranh phi nghĩa với miền Nam – Việt Nam cộng Hòa. Bài viết số 3 tôi đã sơ lược
về lý do bán Hoàng Sa- Trường Sa cho Trung cộng để tiến chiếm miền Nam dưới Mỹ
từ “giải phóng”. Trong khuôn khổ bài này chúng ta cần tìm hiểu sâu thêm sự phi
nghĩa của nó để thấy đây là một cuộc chiến tranh “nướng dân” của đảng cộng sản
và ông Hồ.
Cuộc chiến này còn gây hậu quả sâu nặng
hơn đối với dân tộc ta hơn cả cuộc chiến với người Pháp. Cuộc chiến là nguyên
nhân mất Hoàng Sa – Trường Sa (như đã chứng minh phần 2 và phần 3) thông qua công hàm
bán nước lấy vũ khí mà ông Hồ Chí Minh và ông Phạm Văn Đồng thực hiện.
Chỉ xin nhắc lại những con số của cuộc
chiến này cũng khiến chúng ta phải kinh hoàng về tội ác của ông Hồ và đảng cộng
sản Việt Nam. Thông tin trên wiki (Link: http://vi.wikipedia. org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_tranh_Vi%E1%BB%87t_Nam): "Tùy
theo nguồn, số người Việt Nam bị thiệt mạng trong chiến tranh Việt Nam là từ 3
đến 5 triệu, hàng triệu người khác tàn tật và bị thương. Một nửa diện tích rừng
của Việt Nam bị phá hủy..." (Xin xem thêm phần 4).
Vấn đề ở đây là chúng ta cần chứng minh
sự phi nghĩa của cuộc chiến được mệnh danh giải phóng dân tộc này để chứng tỏ
ông Hồ chí Minh và đảng cộng sản chính là tội phạm chiến tranh. Để chứng minh
luận điểm này tôi xin trình bày các dẫn chứng sau đây.
Đầu tiên, nếu bạn đọc vui lòng
xem lại phần 4 của loạt
bài “Những sự thật không
thể chối bỏ” sẽ thấy được những lý do phi nghĩa của cuộc chiến đó là VNDCCH là
nước kém phát triển kinh tế, văn hóa, chính trị hơn rất nhiều so với VNCH thì
không thể có một cuộc giải phóng ngược được. Đây là lý do đầu tiên cho thấy
thực chất đây là một cuộc chiến phi nghĩa của những kẻ tham lam quyền lực và
hiếu chiến cho đến khi “Đốt cháy hết cả dãi Trường Sơn”.
Thứ hai, cuộc chiến với Mỹ
cũng sẽ giúp cho Việt Nam suy yếu theo mong muốn của Trung cộng để thực hiện
việc triệt tiêu nội lực dân tộc. Điều này có lợi cho Trung cộng để họ lấy Hoàng
Sa - Trường Sa thông qua bán vũ khí và cũng làm cho nhân dân Việt điêu linh “Đánh
Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” mà tôi đã chứng minh ở phần 10.
Thứ ba, sau khi kết thúc chiến tranh Việt nam,
ông Lê Duẩn đã từng tuyên bố: “Ta đánh Miền Nam là Đánh cho Liên Xô,
cho Trung Quốc…”. Tại sao cuộc chiến mang danh là “Giải Phóng dân tộc” lại
là đánh cho nước khác? Đó chính là bằng chứng minh chứng cho sự phi nghĩa của
cuộc chiến đem lại đau thương cho dân tộc. Nó chỉ là cuộc chiến cho ý thức hệ
cộng sản hay nói cách khác cộng sản Việt Nam chính là lính đảnh thuê cho cộng
sản quốc tế.
Thứ 4, để chứng minh cho tính chất cuộc chiến
này là một cuộc chiến ý thức hệ chứ không phải là cuộc chiến giải phóng dân tộc
như ông Hồ và đảng cộng sản lợi dụng để nhuộm đỏ Việt Nam chúng ta cần thấy sự
tham gia của các nước cộng sản trong cuộc chiến này.
Ngoài việc người Liên Xô tham gia vào
cuộc chiến này mà chúng ta không cần nói đến nữa vì quá nhiều người biết thì
cũng xin nêu thêm hai bằng chứng về sự xuất hiện của quân Trung cộng và quân
Triều Tiên tham gia trực tiếp chiến đấu tại Việt Nam cho cộng sản.
Lực lượng Triều Tiên (Bắc Hàn) tham gia
lực lượng cộng sản Việt Nam chiến đấu đã được thừa nhận thông qua bài viết trên
Vnexpress (trong hệ thống truyền thông của đảng cộng sản Việt Nam) với links
sau: http://vnexpress.net/gl/xa-hoi/2012/08/nghia-trang-liet-si-trieu-tien-o-bac-giang/
Bài viết có tiêu đề “Nghĩa trang liệt
sĩ Triều Tiên ở Bắc Giang” có đoạn:
“Thiếu tướng Phan Khắc Hy, Chính ủy Bộ
Tư lệnh Không quân trong thời gian đó cho biết, được sự đồng ý của Chính phủ
Việt Nam, năm 1966, Đoàn Không quân chiến đấu CHDCND Triều Tiên với gần 150
người sang Việt Nam. Đoàn được giao cho Trung đoàn 923 (đóng tại Kép, Lạng
Giang, Bắc Giang) quản lý. Toàn bộ máy bay, lương thực, thuốc men... do quân
đội Việt Nam cung cấp.
Trong số quân nhân Triều Tiên, 24 người
được giao máy bay chiến đấu (14 người được giao máy bay MIG 17B, 10 người được
giao MIG 17C). 113 người thực hiện nhiệm vụ tham mưu, chính trị, hậu cần dưới
sự chỉ huy của thượng tá Kim Chang Xơn.”.
Thiếu tướng Phan Khắc Hy (ngồi hàng đầu,
thứ tư từ phải sang) là chính ủy Bộ tư lệnh không quân. Hai bên tướng Hy là
đoàn trưởng và đoàn phó đoàn không quân CHDCND Triều Tiên.
Ngoài ra còn có bằng chứng sau đây cho
thấy sự xuất hiện của quân Trung cộng trực tiếp tham chiến tại Việt Nam. Trên
tờ nhật báo tại Hongkong đăng theo Reuter (tờ báo uy tín) có viết về sự xuất
hiện của 320.000 quân Trung cộng tại Việt Nam chiến đấu cho chủ nghĩa cộng sản:
Thêm vào đó, theo sử gia Chen Jian, tác
giả quyển “Mao’s China and the Cold War”, vào năm 1965, Bắc Kinh đã
gửi 320,000 quân sang tham chiến tại VN. Nhà văn Vũ Thư Hiên, trong quyển “Đêm
Giữa Ban Ngày” trong trang 229 đã trích dẫn một đoạn từ cuốn “Giọt
Mưa Trong Biển Cả” của ông Hoàng Văn Hoan (tr.345) về “sự kiện
Hoa quân nhập Việt”:
“Từ năm 1965 đến năm 1970, theo yêu cầu
của Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam, Mao Chủ tịch và Trung
ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã phái hơn ba mươi vạn bộ đội vào Việt Nam”.
Qua những bằng chứng về sự tham gia của
Trung cộng, Bắc Hàn cùng với sự hiện diện của quân Liên Xô cho thấy cuộc chiến
của đảng cộng sản phát động thực chất là cuộc chiến tranh nhuộm đỏ Việt Nam của
chủ nghĩa cộng sản. Lý do “Giải phóng dân tộc” chỉ là ngụy biện.
Có thể nhiều người sẽ cho rằng VNCH có
sự hậu thuẫn của Mỹ và đồng Minh tham chiến cũng là sự quốc tế hóa chiến tranh.
Nhưng phải nên nhớ chính VNDCH là kẻ chủ động gây chiến (đã chứng minh ở phần 4) và VNCH chỉ ở thế bị
động.
Thứ năm, chính đảng cộng sản
Việt Nam cũng đã thừa nhận việc Mỹ hoàn toàn không có khả năng can thiệp trực
tiếp vào Việt Nam sau khi chiến tranh Triều Tiên kết thúc. Tại sao VNDCCH lại
phải bán HS-TS cho Trung cộng (1958) để gây chiến? Vì đó thực chất là một cuộc
chiến phi nghĩa gây đau thương cho dân tộc. Bằng chứng cho thấy đảng cộng sản
công nhận trước 1965 thì Mỹ không có khả năng trực tiếp can thiệp quân sự vào
Việt Nam được thể hiện Trong cuốn “Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
trong 30 năm qua” (NXb Sự thật - Cơ quan của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam) có
viết:
“Sự thật là sau cuộc chiến tranh Triều
Tiên, Mỹ không có khả năng can thiệp quân sự trực tiếp vào Đông Dương”
Thực chất Mỹ chỉ vào Việt Nam sau khi
cộng sản đã khai chiến và họ vào với mục đích bảo vệ quyền độc lập của VNCH
đang tiến hành dân chủ hóa. Và chúng ta cũng thấy rằng dù đảng cộng sản rêu rao
“Mỹ xâm lược” Việt Nam nhưng chúng ta đâu có thấy Mỹ lấy 1 tấc đất, một hòn
đảo, hay một cái mỏ Boxit nào như Trung cộng đang làm? Đó là minh chứng cho sự
ngụy biện của đảng cộng sản cho sự hiếu chiến của mình.
Thứ sáu, chúng ta quay trở
lại phần 6 tôi đề cập đến 2 bức thư mà Hồ Chí Minh gửi Stalin để xin chỉ thị về
CCRĐ và xin vũ khí. Hai bức thư được viết năm 1952 (đã post bản in và link kiếm
chứng). Vấn đề được đặt ra khi là năm 1952 không có cuộc chiến nào lớn với Pháp
và tại sao tôi khẳng định việc xin vũ khí này lại liên quan đến cuộc chiến sau
này với VNCH thì xin được trình bày như sau:
Đầu tiên chúng ta đều biết rằng thời
điểm 1952, Việt Minh chỉ đối đầu với Pháp tuy nhiên không có những cuộc chiến
lớn xảy ra nhưng việc yêu cầu Liên Xô cấp vũ khí đơn thuần chỉ là để phục vụ
cuộc chiến Việt – Pháp.
Nhưng phát hiện từ một tài liệu của Liên
Xô đã chứng minh sự kiện xin vũ khí của ông Hồ không đơn giản chỉ là để đánh
nhau với Pháp mà còn là chuẩn bị cho tình huống đánh nhau với Mỹ. Như chúng ta
đã biết việc Trung cộng mong muốn có cuộc chiến Việt – Pháp nhằm triệt tiêu nội
lực dân tộc (phần 10) và lấy lại đất người
Pháp dành cho Việt Nam (xem mục A). Nhưng ở phần 10 chúng ta cũng đã thấy Trung
cộng không dám chắc về một cuộc chiến mà chiến thắng hoàn toàn thuộc về Việt
Minh nên họ đã chuẩn bị cho một cuộc chiến khác nếu Mỹ nhảy vào Việt Nam. Tài
liệu của Liên Xô đăng trong cuốn sách có tên “Một bước đi lớn” –
xuất bản năm 1999 bởi nhóm tác giả đã từng hoạt động tại KGB bởi nhà xuất bản
quân đội Liên Bang Nga nói về hoạt động tình báo của Liên Xô có đoạn trang 126:
“Khả năng rất lớn là Mỹ sẽ có vai trò
quan trọng trong việc thiết lập hòa bình ở Đông Nam Á trong đó có Việt Nam.
Trung quốc cũng hiểu điều này. Chính vì thế Liên Xô phải chuẩn bị cho tình
huống xấu nhất là chủ nghĩa tư bản ngự trị tại nơi mà Liên Xô đang mong muốn
xây dựng chủ nghĩa Xã hội…”
Như vậy thời điểm mà ông Hồ viết thư xin
vũ khí 1952 thì Liên Xô đã tiên đoán Mỹ có khả năng phải can thiệp vào Việt
Nam.
Và cuốn sách cũng nói lên sự kiện liên
quan đến hai bức thư xin vũ khí của ông Hồ:
“Đồng Chí Stalin đã thông tin cho Việt
Minh thông qua bộ ngoại giao Liên Xô để Việt Minh có đề xuất trong việc chuẩn
bị tinh thần chiến đấu lâu dài và công việc chuẩn bị cho Cải cách ruộng
đất…” (Trích trang 129).
Như vậy qua hai dẫn chứng cho thấy Liên
Xô đã chỉ đạo cho ông Hồ phải chuẩn bị ngăn cản Mỹ bằng mọi cách nếu sau này
xảy ra, và việc ông Hồ xin vũ khí cũng nằm trong kế hoạch đó. Và qua đây cho
thấy sự hiếu chiến của phe cộng sản thông qua sự thể hiện của ông Hồ và đảng
cộng sản để triệt tiêu ý thức hệ đối lập mà ý thức hệ đó lại là ý thức hệ tự
do, dân chủ và nhân bản.
Thứ bảy, thật ra, sau Hiệp
Ước Genève ngày 20-07-54, Việt Nam Cộng Hòa đã được hưởng vài năm thanh bình
thinh trị. Cuộc chiến chỉ bắt đầu tái phát với một quy mô khá rộng lớn vào ngày
tỉnh Phước Thành (cũ) bị quân đội cộng sản tấn công với sự hy sinh của vị Thiếu
tá Tỉnh trưởng và căn cứ Trảng Sụp của Trung đoàn 32, thuộc Sư đoàn 21 Bộ Binh
bị VC tấn công vào đêm 25-01-60 với sự hy sinh của hơn 20 quân nhân VNCH và sự
thất thoát trên 1,000 vũ khí (trích Phạm Văn Liễu, Trả Ta Sông Núi (Hồi ký I),
Văn Hóa, Houston, Texas 2002, tr. 349, 351. (“Năm1959, sư đoàn (SD) khinh
chiến 13, đóng tại Bến Kéo, Tây Ninh và SĐ 11 đóng ở Hậu Giang được sáp nhập
thành SĐ 21 dã chiến. Trung đoàn (TrĐ) 39 của SĐ 13 cũ sáp nhập vào TrĐ 32 của
SĐ 11 thành TrĐ 32 của SĐ 21 tân lập”).
Chính vì vậy ta có thể tạm gọi cuộc nội
chiến đó là “Cuộc Chiến 1955-1975” mà không là “Cuộc Chiến 1960-1975”? Sau Hiệp
Ước Genève, Việt Minh tiếp tục cuộc chiến một cách âm thầm bằng cách chôn dấu
vũ khí, đạn dược và gài cán bộ, cán binh lại Miền Nam để lâm thời tiếp tục cuộc
chiến. Theo ước tính của Hoa-kỳ và Chính Phủ Quốc gia, có khoảng từ 5,000 đến
10,000 người được huấn luyện và cài lại Miền Nam với tư cách cán bộ (trích
trong cuốn sách của CIA và chính phủ Mỹ thuộc loại mật: The Pentagon Papers,
Gravel Edition, Volume 1, Chapter 5, “Origins of the Insurgency in
South Vietnam, 1954-1960”, Beacon Press, Boston, 1971, tr. 242-269).
Nhưng theo một tài liệu do đảng cộng sản
ấn hành, Việt Minh đã để lại Miền Nam 60,000 đảng viên (trích trong Tổng
Kết Cuộc Kháng Chống Thực Dân Pháp, Thắng Lợi và Bài Học, Hà Nội,
1996):
“Cán bộ và đảng viên được đặt dưới quyền
lãnh đạo của đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Xứ Ủy Nam Bộ. Vào ngày cuối cùng của thời
hạn tập kết ở Cà Mau, sau khi chúng ta đánh lừa địch bằng cách giả bộ lên tàu
tập kết, đồng chí Lê Duẩn đã tìm cách rời khỏi tàu vào lúc nửa đêm để ở lại”.
Như vậy, rõ ràng Miền Bắc đã chuẩn bị
tấn công Miền Nam ngay khi Hiệp Ước Genève chưa kịp ráo mực, chứ không phải vì
Miền Nam không chấp nhận tổng tuyển cử vào năm 1956 hoặc vì có sự hiện diện của
quân đội Hoa Kỳ tại Miền Nam mà đang cộng sản luôn tìm cách tuyên truyền mị
dân.
Thứ 8, trong bộ môn lịch sử chương trình lớp
12, đảng cộng sản Việt Nam tuyên truyền: “Mặt trận Giải phóng Miền Nam”
thành lập ngày 20/12/1960 với mục tiêu “đấu tranh chống quân xâm lược Mỹ và
chính quyền tay sai, nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”. Nhưng
thực chất thì sao? Năm 1961 khi ông Ngô Đình Diệm ký Hiệp ước quân sự với Mỹ,
thì miền Nam lúc đó chỉ có các cố vấn Mỹ và một ít quân mang tính yểm trợ (US
Support Troopes) với nhiệm vụ chính là xây dựng phi trường, cầu cống, đường
sá...
Mỹ chỉ bắt đầu đưa quân vào miền Nam từ
năm 1965, sau khi ông Ngô Đình Diệm qua đời do cương quyết từ chối không cho Mỹ
trực tiếp can thiệp quân sự. Điều này ai cũng biết cả. Quân Mỹ thực sự đổ quân
vào miền Nam sau sự kiện vịnh Bắc Bộ năm 1964 và để giúp VNCH chống lại cuộc
chiến đang ngày càng leo thang của cộng sản ở miền Nam. Cho đến năm 1964 cả về
quân số và trang bị quân sự của VNCH không thể bằng VNDCCH (xin xem lại phần 3 tôi đã chứng
minh). Vậy thì vào thời điểm 20/12/1960, làm gì có bóng dáng lính Mỹ nào ở Miền
Nam, làm gì đã có ai xâm lược mà chống? Đảng cộng sản phải chống ai, chống cái
gì vào năm 1960? Chính sự mâu thuẫn trong lời nói của cộng sản cũng cho ta thấy
bản chất nói dối, lật lọng trong việc kích động chiến tranh phi nghĩa tại Việt
Nam.
Thứ 9, sau khi đọc bài của tác giả Truyền
Tấn, tôi lập tức đọc và tìm hiểu cuốn sách “MAO: The Unknown Story”.
Sách được phát hành năm 2005 do hai nhà xuất bản Anchor Books và Random House
của tác giả Jung Chang và Jon Halliday. Như lời tác giả Truyền Tấn đã viết về
Jung Chang là một hồng vệ binh của Trung cộng, tôi không cần giời thiệu lại
(xem lại bài viết của tác giả Truyền Tấn tại links: http://danlambaovn.blogspot.com/2012/07/ong-gop-them-su-that-cho-bai-viet-nhung.
html#.UCICfYRZNWs). Xin phép được trích lại đoạn trong cuốn sách trang 470 mà tác giả Truyền
Tấn đã trích:
“Có một nơi gần Trung Quốc, nơi đã có
người Mỹ, đó là Việt Nam. Cuối năm 1963, miền Nam Việt Nam có khoảng 15,000 cố
vấn quân sự Mỹ. Kế hoạch của Mao là tạo tình huống làm cho Mỹ phải gởi thêm
quân đội vào miền Nam, ngay cả có thể xâm chiếm miền Bắc giáp giới với Trung
quốc. Được như vậy, nếu Mỹ oanh kích những căn cứ nguyên tử của ông ta, bộ binh
Trung quốc sẽ tràn vào Việt Nam và bao trùm quân Mỹ như đã xảy ra ở chiến tranh
Triều Tiên. Để thực hiện kế hoạch nầy, năm 1964 Mao thúc ép CSVN đẩy mạnh chiến
tranh Đông Dương. Mao huấn thị Bắc Việt tránh đụng độ lớn, và cào xới khắp diện
địa… biến thành cuộc chiến rộng lớn là tốt nhất. Mao bảo Bắc Việt phải đưa thêm
Bộ Đội vào miền Nam, và đừng sợ sự can thiệp của Mỹ. Ông ta nói, cùng lắm là
như chiến tranh Triều Tiên. Bộ đội Trung Cộng đã sẵn sàng. Nếu Mỹ tấn công Bắc
Việt, Bộ Đội Trung Cộng sẽ tràn qua ngay, họ đang muốn có chiến tranh.”
Chỉ cần đọc những phần in đậm bạn đọc sẽ
thấy 2 điều chính Mao chỉ huy ông Hồ đưa quân gây chiến với Miền Nam và trên
thực tế dẫn chứng thứ 4 của tôi ở trên đã chứng minh Mao đã đưa quân vào Việt
Nam chiến đấu cho thấy: Hồ Chí Minh đã được lệnh của Mao đem quân gây chiến với
miền Nam. Ai gây chiến bạn đọc cũng rõ rồi.
Kết luận: Qua những bằng
chứng trên cho ta thấy thực chất của cuộc chiến Việt Nam là cuộc nội chiến phi
nghĩa và huynh đệ tương tàn mà ông Hồ và đảng cộng sản gây nên cho dân tộc
ta.
Kết luận chung:
Có thể nhận thấy cuộc chiến với Pháp và
sau này là cuộc nội chiến Bắc Nam đều là không cần thiết và phi nghĩa. Đảng
cộng sản Việt Nam thực hiện điều này chỉ nhằm củng cố quyền lực đỏ, gia tăng
độc tài, âm mưu hán hóa và thực hiện làm chư hầu cho Trung cộng, Liên Xô.
Chính vì hai cuộc chiến tranh phi nghĩa
này mà hiện nay chúng ta đang chịu hậu quả tai hại. Nếu Miền Bắc lo tái thiết
với ba tỷ USD do Mỹ viện trợ và thực thi lời dạy bảo của Cụ Phan: “Khai
dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, để yên cho Miền Nam thực hiện những
điều tương tự và nếu hai Miền cùng tranh nhau tạo phúc lợi cho người dân của
mình, đua nhau làm cho dân mình được cơm ngon, áo đẹp, để đi lần đến thực tâm
hòa giải và thống nhất đất nước trong hòa bình như Tây Đức và Đông Đức thì cuộc
chiến 1955-1975 có xảy ra để giết hại trên 4 triệu người Việt và biến Việt Nam
thành một trong những nước trên thế giới hay không? Thảm cảnh thuyền nhân trốn
chạy chế độ cộng sản bạo tàn với trên nửa triệu người vùi thân xác nơi lòng
biển cả có xảy ra hay không? Việt Nam có bị mất đất, mất đảo, mất biển cho
Trung cộng hay không? Việt Nam có bị Trung cộng khống chế và công khai trấn áp
như ngày hôm nay hay không? Thiếu nữ và trẻ thơ Việt Nam có bị xuất cảng làm nô
lệ tình dục cho ngoại bang hay không? Công nhân Việt Nam có lâm vào cảnh “đem
con bỏ chợ” như ở Samoa, Mã Lai và các xứ khác hay không? Dân nghèo có phải đi
bán máu để mua thức ăn hay không? Mafia đỏ có cấu kết với bọn đầu tư ngoại quốc
để đàn áp công nhân Việt Nam ngay trên đất Việt hay không? …
Một chuỗi những câu hỏi xót lòng ấy đã
được trả lời bằng những hành động mà đảng cộng sản Việt Nam, ông Hồ Chí Minh đã
và đang gây ra cho dân tộc Việt Nam. Họ là những tên tội phạm chiến tranh thật
sự và đúng như cụ Nguyễn Trãi đã nói “Nướng dân đen trên ngọn lửa
hung tàn”.
Hoàn thiện và chỉnh sửa: 05/08/2012