jeudi 15 décembre 2011

Mở lại vụ án Phạm Quỳnh

06/12/2011
Sơn Tùng
-
Không có Công lý, khi kẻ giết một người thì bị trừng phạt, có khi phải đền mạng, còn kẻ giết hàng triệu người lại được đúc tượng, xây lăng, ướp xác.
Theo lời một số nhân chứng và thân nhân ông Phạm Quỳnh, ông đã bị lực lượng vũ trang Việt Minh bắt giữ ngày 23/8/1945 tại Huế và bị giết chết ngày 6/9/1945 tại khu rừng Hắc Thú thuộc tỉnh Quảng Trị, nằm về phía bắc thành phố Huế.
Ông đã bị đập vỡ sọ bằng cuốc và vùi thây dưới một giao thông hào cùng với hai nạn nhân khác là Ngô Đình Khôi, anh cố Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm, và người con trai Ngô Đình Huân.
Mười một năm sau, 1956, do sự chỉ dẫn của một nhân chứng, thân nhân của các nạn nhân mới tìm được nơi chôn xác và cải táng. Theo thân nhân ông Phạm Quỳnh, di cốt của ông đã không còn nguyên vẹn và chỉ được xác nhận nhờ cặp kính cận thị, vật bất ly thân của ông.
Nhưng, Phạm Quỳnh là ai?
Có thể nói rằng không người Việt Nam có văn hóa nào không biết Phạm Quỳnh, hay không nghe tên ông. Vì học giả Phạm Quỳnh là ngôi Sao Bắc Đẩu của văn hóa Việt Nam tiền bán Thế kỷ 20. Vì nhà báo Phạm Quỳnh là người đã khai đường mở lối cho nền báo chí Việt Nam. Vì nhà cai trị Phạm Quỳnh trong phẩm trật Thượng Thư triều đình Huế là người có lòng yêu nước, có tầm nhìn xa và có đầu óc cách mạng. Viết về sự nghiệp của ông cần nhiều pho sách, và không phải là mục đích của bài viết này, xin hẹn để một dịp khác.
Mục đích của bài viết này là đi tìm thủ phạm đã giết Phạm Quỳnh, những chính phạm đã gây ra tội ác này – không chỉ với bản thân Phạm Quỳnh mà còn với dân tộc Việt Nam, và với nhân loại.
Thật vậy, trong tội ác này các thủ phạm không chỉ giết Phạm Quỳnh mà còn hủy diệt một tinh hoa của đất nước Việt Nam, và loại trừ một thành viên ưu tú trong cộng đồng nhân loại.
Trong vụ án này có chính phạm và những tòng phạm, hay nói cách khác, kẻ ra lệnh và người thi hành. Ngày nay, mọi người đều biết lực lượng vũ trang của Việt Minh tại Huế vào năm 1945 đã bắt và giết Phạm Quỳnh. Nhưng, ai là kẻ ra lệnh?
Việt Minh lúc ấy là tên tổ chức kháng chiến chống Pháp dưới quyền chỉ huy và điều khiển của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Những người theo Việt Minh lúc đầu hầu hết là những người yêu nước đã đáp lời kêu gọi của Hồ Chí Minh để tham gia kháng chiến, đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại độc lập cho Việt Nam. Không mấy ai biết “kháng chiến, chống Pháp” chỉ là một chiêu bài được Đảng CSVN dùng để cướp chính quyền, cai trị toàn lãnh thổ Việt Nam dưới thể chế độc tài cộng sản. Vì vậy, CSVN đã thẳng tay diệt trừ những cá nhân và những thành phần có thể là chướng ngại vật trên đường tiến tới quyền lực và củng cố quyền lực của họ, trong đó có những người ở ngoài và cả ở trong hàng ngũ kháng chiến.
Đó là lý do vì sao Phạm Quỳnh bị giết.
Phạm Quỳnh không phải là người xa lạ với Hồ Chí Minh. Ngoài việc ông là một nhân vật rất nổi tiếng thời bấy giờ, về văn hóa cũng như chính trị, Phạm Quỳnh đã có những giao tiếp cá nhân với Hồ Chí Minh từ thời Pháp thuộc khi phong trào giành độc lập đang nhen nhúm trong giới được gọi là “sĩ phu” thời ấy. Trong cuốn nhật ký do chính tay Phạm Quỳnh ghi chép vào thời gian ông sang Pháp năm 1922, ông có ghi vắn tắt gặp Hồ Chí Minh (lúc đó còn mang bí danh Nguyễn Ái Quốc) hai lần, một lần vào ngày 13/7/1922: “ăn cơm an-nam với Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường”, một lần vào ngày 16/7/1922: “ở nhà.- Trường, Ái Quốc và Chuyền đến chơi.” (Chuyền là Nguyễn Thế Truyền). (Xem phóng ảnh đính kèm do người viết chụp từ nguyên bản Nhật ký hiện do Nhạc sĩ Phạm Tuân, con trai út của ông lưu giữ).
Trong nhật ký, ông chỉ ghi vắn tắt, không nói rõ chi tiết hay nội dung những câu chuyện trao đổi, có thể vì không muốn là bằng cớ để tự buộc tội mình một khi lọt vào tay mật thám Pháp, nhưng chắc chắn không phải những người này gặp nhau chỉ để đánh chén hay nói chuyện trời mưa trời nắng. Sau này, trong thiên “Hành trình Nhật ký”, ông ghi rõ thêm là có “nói chuyện nước nhà” với “mấy ông chí sĩ”. Qua những câu chuyện ấy, Hồ Chí Minh đã biết tư tưởng và quan điểm chính trị của những người đối thoại, trong đó có Phạm Quỳnh.
Hai mươi mốt năm sau, tình hình Việt Nam chuyển động mạnh do ảnh hưởng của trận Thế Chiến II ở vào giai đoạn chót mà Quân Phiệt Nhật đang làm bá chủ miền Đông Á, trong đó có Việt Nam, hất cẳng Pháp khỏi thuộc địa Đông Dương, nhưng chính Nhật cũng đang trên đường bại trận.
Các đảng phái chính trị, những người Việt Nam yêu nước đều rộn rịp hoạt động để chuẩn bị nắm thời cơ. Khi ấy, Phạm Quỳnh đang là Thượng thư Bộ Lại, một chức chưởng tại triều đình Huế thời ấy có thể xem như thủ tướng, đã có cái nhìn chính xác và thực tế về tương lai nước Việt Nam. Theo nhân chứng Hoàng Tâm V.T., lúc ấy là Tri phủ Quận Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, trong một lần đi kinh lý các tỉnh miền Trung, ngày 22/1/1945, Thượng thư Bộ Lại Phạm Quỳnh đã nói với ông trong phòng riêng như sau: “Này ông phủ, chiến tranh ở Âu Châu đã đến độ chấm dứt và ở Thái Bình Dương chiến tranh cũng đã vào thời kỳ kết thúc. Đây là vận hội tốt cho rất nhiều nước bị trị được trả tự do. Nhưng ta không nên nghĩ rằng tự do ấy sẽ được hiến dâng cho ta trên khay bạc, mâm vàng. Ta phải tranh đấu nhiều, ông hiểu tôi muốn nói tranh đấu nhiều là sao rồi, đó là tranh đấu quyết liệt và toàn diện…”
Tuy nói vậy, Phạm Quỳnh chỉ làm nhiệm vụ của một nhà cai trị của triều đình Huế dưới quyền Vua Bảo Đại. Không có tài liệu hay nhân chứng nào cho thấy ông có những hoạt động liên hệ đến một đảng phái hay phe nhóm nào.
Những tháng đầu năm 1945 tình hình Việt Nam có những biến chuyển lớn khi Nhật đảo chính Pháp, lật đổ chế độ thuộc địa ở Đông Dương ngày 9/3/1945 và tuyên bố trả độc lập cho ba nước Việt, Miên, Lào trên bán đảo này để gia nhập khối Đại Đông Á do Nhật đứng đầu.
Theo hồi ký “ Bảo Đại Con Rồng Việt Nam”, ngày 11/3/1945 Vua Bảo Đại và Thượng thư Bộ Lại Phạm Quỳnh đã cùng toàn thể thượng thư nội các Nam triều ký vào bản “Tuyên ngôn độc lập” do Phạm Quỳnh soạn thảo, hủy bỏ tất cả các hiệp ước Pháp-Việt trước đó. Một tuần sau, ngày 19/3, nội các Nam triều từ chức. Vua Bảo Đại giao cho Học giả Trần Trọng Kim lập chính phủ Việt Nam độc lập đầu tiên để hợp tác với Nhật sau khi tham khảo ý kiến nhiều người. Phạm Quỳnh không giữ chức vụ gì trong nội các mới và trở về ở tại tư thất Hoa Đường nằm trên bờ sông An Cựu, Huế. Chính tại ngôi biệt thự này, ông đã bị Việt Minh bắt và đưa đi thủ tiêu.
Trước đó, Đảng CSVN do Hồ Chí Minh đứng đầu núp dưới tên Mặt Trận Việt Minh đã lợi dụng khoảng trống quyền lực sau khi Nhật đầu hàng (14/8 và chính phủ Trần Trọng Kim tê liệt, cướp chính quyền tại Hà Nội ngày 19/8/1945, và đòi Vua Bảo Đại thoái vị. Tuy đã đầu hàng nhưng quân đội Nhật tại Việt Nam chưa bị giải giới, còn nguyên sức mạnh và có thể dẹp tan cuộc đảo chính của Việt Minh với lực lượng vũ trang thô sơ, nhưng Vua Bảo Đại đã không chấp nhận đề nghị của viên đại sứ Nhật tại Huế vì sợ gây nội chiến. Do đó, nội các Trần Trọng Kim tuyên bố giải tán sau khi họp phiên cuối cùng ngày 23/8/1945. Hai ngày sau, 25/8, Vua Bảo Đại ra chiếu thoái vị và ngày 30/8 trao quốc ấn và bảo kiếm cho phái đoàn đại diện Việt Minh do Trần Huy Liệu cầm đầu tại cửa Ngọ Môn, và tuyên bố: “Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ.”
Câu nói hay đẹp ấy không biết ai mớm cho nhà vua thiếu trách nhiệm với đất nước đã hợp pháp hóa chính quyền Việt Minh do cộng sản cầm đầu chẳng khác nào “giao trứng cho ác”, trong lúc những người quốc gia yêu nước bị ruồng bố và tàn sát. Trong đó có Phạm Quỳnh, cựu Thượng thư Bộ Lại của triều đình Bảo Đại.
Dựa theo những nguồn tin xác thực, nhà viết sử Trần Gia Phụng thuật lại như sau trong bài “Trường hợp Phạm Quỳnh”: “Trong khi đó, lấy cớ tìm kiếm vũ khí còn tàng trữ tại nhà các vị có chức quyền trước đây, Việt Minh cho người lục soát biệt thự ‘Hoa Đường’ ngày 23-8-1945. Tuy không tìm được gì, họ vẫn ‘mời’ Phạm Quỳnh và người con rể là Nguyễn Tiến Lãng đi ‘họp’ với Ủy ban cách mạng Trung Bộ đóng ở tòa Khâm sứ Pháp cũ. Đây là thủ thuật bắt người của chính quyền cộng sản rất mới lạ lúc đó, và rất quen thuộc với người Việt Nam sau này. Có lẽ cần chú ý việc Phạm Quỳnh về trí sĩ mà không phòng thân, hoặc không lo tìm đường mà trốn tránh, ngay cả sau khi Việt Minh đảo chánh, chứng tỏ bản thân Phạm Quỳnh nghĩ rằng ông chẳng phải là tay sai của Pháp để phản dân hại nước, và ông cũng chẳng theo một đảng phái chính trị nào, nên chi có gì phải sợ đề phòng. Nếu quả thật ông là tay sai của Pháp thì ông đã cao bay xa chạy, và Việt Minh không dễ bắt được ông như vậy.
“Nguyễn Tiến Lãng bị giam riêng, không cùng chỗ với nhạc gia. Ông Lãng và gia đình không biết tin tức gì của Phạm Quỳnh, cho đến những ngày Việt Minh sửa soạn đưa ông Lãng ra tòa, nhóm họp tại Điện Thái Hòa vào khoảng đầu năm 1946, thì báo chí Việt Minh công bố rằng ông Phạm Quỳnh, cùng ông Ngô Đình Khôi và con trai trưởng đang làm thông ngôn cho Nhật là Ngô Đình Huân, đã bị xử tử hình, nhưng không cho biết ngày giờ các ông bị giết, cũng như đã chôn các ông ở đâu. Về sau, gia đình mới được biết Phạm Quỳnh đã bị giết ngày 6-9-1945 tại vùng cách Huế khoảng 20 cây số. Có lẽ cần ghi nhận thêm lúc bấy giờ, chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa của phong trào Việt Minh ở Huế là Tố Hữu.”
Tiếp xúc với người viết tại nhà ông ngày 18/7/2007, ông Phạm Tuân xác nhận những điều trên đây và nhấn mạnh di cốt của thân phụ ông không còn đầy đủ, sọ bị nứt một đường dài, và chỉ nhận ra được do cặp kính cận gãy gọng.
Trong cuốn “Hồi ký người lính già”, Đại tá (CSVN) Đặng Văn Việt có nói đến việc ông Phạm Quỳnh đã bị bắt và giết như thế nào, nhưng cũng chỉ nói một nửa sự thật, phần sự thật được cho phép nói.
Nhưng “tòa” nào đã xử và kết tội ông Phạm Quỳnh? Những ai ngồi xử và diễn ra tại đâu? Ngày nào? Hay, ai đã ra lệnh giết Phạm Quỳnh?
Ông Trần Gia Phụng lưu ý người đọc: “Phạm Quỳnh bị bắt ngày 23-8-1945, và bị giết ngày 6-9, nghĩa là ông không bi nhóm Việt Minh địa phương Huế giết liền khi họ nổi dậy. Ông bị giam giữ một thời gian rồi mới bị giết sau khi nhóm Trần Huy Liệu đến Huế dự lễ thoái vị của Vua Bảo Đại. Khi có sự hiện diện của đại diện trung ương, các cán bộ Việt Minh địa phương không dám tự tiện ra tay, mà chắc chắn phải có ý kiến của trung ương. Nhóm Trần Huy Liệu cũng không thể tự quyết định được việc này. Như vậy phải chăng chính nhóm Trần Huy Liệu đã đem lệnh từ Hà Nội vào Huế giết Phạm Quỳnh? Và lệnh đó từ đâu, nếu không phải là từ Hồ Chí Minh?”
Theo hồi ký của bà Phạm Thị Thức, người con gái của Phạm Quỳnh, viết năm 1992, sau khi Phạm Quỳnh bị giết, bà cùng người chị là Phạm Thị Giá đã ra Hà Nội gặp Hồ Chí Minh qua sự giúp đỡ của người cận vệ của ông ta là ông Vũ Đình Huỳnh. Bà Thức cho biết Hồ Chí Minh chối, không nhận đã ra lệnh giết Phạm Quỳnh và đổ tội cho cán bộ địa phương. Họ Hồ bảo: “Hồi ấy tôi chưa về… Và trong thời kỳ khởi nghĩa quá độ và có thể có nhiều sai sót đáng tiếc.”
Sự thật ra sao?
Nếu ngày 6/9/1945 Hồ Chí Minh “chưa về” thì ai đọc “tuyên ngôn độc lập” tại Hà Nội ngày 2/9/1945? Ai ra lệnh cho bộ máy tuyên truyền của nhà nước cộng sản trong nhiều năm trời sau đó vu cáo Phạm Quỳnh là “Việt gian”, tay sai thực dân Pháp, và bôi xóa tên Phạm Quỳnh trong văn học sử Việt Nam?
Nếu Phạm Quỳnh chỉ là nạn nhân của “nhiều sai sót đáng tiếc” thì Tố Hữu, kẻ nắm chức chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa của Việt Minh ở Huế lúc giết Phạm Quỳnh không thể thăng tiến đều đều trên nấc thang đảng CSVN để sau này lên đến phó thủ tướng.
Vì vậy, câu trả lời của Hồ Chí Minh chỉ là một lời nói dối sống sượng. Nó còn cho thấy thái độ coi mạng người như cỏ rác của kẻ cầm đầu Đảng CSVN, xem việc giết người chỉ là “sai sót đáng tiếc”, rồi thôi, không điều tra, không trừng phạt kẻ có tội, không phục hồi danh dự và bồi thường cho nạn nhân. Không khác nào chuyện bắt của dân con gà, con vịt.
Thật ra, Phạm Quỳnh không phải là nạn nhân của “nhiều sai sót đáng tiếc… trong thời kỳ khởi nghĩa quá độ”. Ông đã là một trong hơn một triệu nạn nhân của chính sách tàn bạo được hoạch định từ cấp cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong bản danh sách đen ấy, có lẽ Phạm Quỳnh đã được xếp hạng “ưu tiên” vì những lý do đặc biệt.
Mặc dù không có hành động nào chống lại Việt Minh lúc ấy, Phạm Quỳnh được coi là mối nguy cho chính quyền non yếu của Hồ Chí Minh trong giai đoạn sơ khai vì ông đang là người có uy tín rất lớn với mọi giới trong xã hội Việt Nam, lại có tài năng lãnh đạo và cai trị mà Hồ Chí Minh biết rõ điều ấy do thành tích của ông và qua sự giao tiếp cá nhân như đã nói ở phần trên. Và điều quan trọng hơn cả, cũng qua giao tiếp cá nhân, Hồ Chí Minh biết rõ Phạm Quỳnh không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản và không thể khuyến dụ.
Khi bị giết, Phạm Quỳnh mới 53 tuổi – cái tuổi chín mùi của tài năng, sung mãn sinh lực và già dặn kinh nghiệm.
Đó là lý do vì sao Hồ Chí Minh không giết Vua Bảo Đại mà lại giết cựu Thượng thư Phạm Quỳnh. Trong cuộc “cách mạng tháng mười” năm 1917 tại Nga, bọn cộng sản Bôn-sê-vích, đàn anh và đồng chí của Hồ Chí Minh, không chỉ giết Sa Hoàng Nicolai II mà còn tàn sát cả gia tộc vua, giết luôn cả tôi tớ của hoàng gia. Dưới mắt Hồ Chí Minh, Bảo Đại là một kẻ vô hại, dù đang làm vua nhưng chỉ ngồi làm vì trên ngai vàng, không có tài năng gì và chỉ thích ăn chơi, nhu nhược, không thể lãnh đạo một lực lượng đối nghịch nào chống lại cộng sản. Nhưng, Phạm Quỳnh thì có thể bất cứ lúc nào trở thành một kẻ thù nguy hiểm. Hồ Chí Minh đã nhận xét không sai về Vua Bảo Đại. Sau khi thoái vị, trao quyền cho Hồ Chí Minh, công dân Vĩnh Thụy vui vẻ nhận chức “cố vấn tối cao” và đi Hong Kong nghỉ mát.
Với Phạm Quỳnh, Hồ Chí Minh còn có một lý do thầm kín khác để cần phải trừ khử. Hồ Chí Minh tự biết thua kém Phạm Quỳnh về mọi mặt, và ngược lại, Phạm Quỳnh cũng biết rõ quá khứ u ám của Hồ Chí Minh, kẻ tự nhận là Nguyễn Ái Quốc. Hồ Chí Minh cùng lứa tuổi với Phạm Quỳnh, khi gặp nhau tại Pháp năm 1922 cả hai cùng khoảng 30. Khi ấy, Phạm Quỳnh đã là một học giả lẫy lừng, một nhà báo nổi tiếng, “hoạn lộ” thênh thang, sang Pháp cùng với Vua Khải Định dự Hội chợ Marseille, và được mời diễn thuyết tại Trường Thuộc địa Paris (École Coloniale) – chính cái trường mà năm 1911, Hồ Chí Minh dưới tên Nguyễn Tất Thành đã viết đơn cho tổng thống Pháp xin đặc ân theo học nhưng bị từ chối (trong đơn này, HCM khai là sinh năm 1892, cùng năm sinh với Phạm Quỳnh). Cho tới lúc gặp Phạm Quỳnh, Hồ Chí Minh không có nghề nghiệp ổn định, không có tên tuổi nhất định, lý lịch mù mờ, và đã gia nhập Đảng Cộng sản Pháp được vài năm, hoàn toàn vô danh trong xã hội Việt Nam.
Là một cán bộ cộng sản, Hồ Chí Minh không thể không biết tài năng và lập trường chính trị của Phạm Quỳnh, nhất là sau mấy lần gặp gỡ ở Paris. Vì vậy, khi cướp được chính quyền năm 1945, Hồ Chí Minh đã ra tay trừ khử Phạm Quỳnh.
Phạm Quỳnh cũng không phải “chỉ là nạn nhân của một chế độ buổi giao thời hỗn loạn” như có người nói. Ông đã là nạn nhân tất yếu của chính sách đẫm máu của người cộng sản được thi hành một cách có kế hoạch, có hệ thống.
Phạm Quỳnh và những nạn nhân khác đã chết vì đứng ở thế đối kháng với cộng sản, dù không, hay chưa có hành động gì tích cực. Họ cần được tôn vinh, chứ không cần được “giải oan” vì họ đã không bi xét xử và kết tội bởi một tòa án nhân danh công lý. Họ đã bị thủ tiêu một cách mờ ám và phi pháp trong bóng tối mà chính kẻ cầm đầu chế độ cũng không dám nhận trách nhiệm. Chế độ bất lương ấy càng không có tư cách để “giải oan” cho những nạn nhân của nó, mà chính chế độ ấy cần phải bị lên án và kết tội.
Trong lễ khánh thành Đài Tưởng Niệm hơn 100 triệu nạn nhân cộng sản trên thế giới tại Washington DC ngày 12/6 vừa qua, Tổng Giám Mục Pietro Sambi nói rằng: “Hàng triệu người đã bị cộng sản giết hại. Chúng ta không biết mặt họ, không biết tên tuổi họ, nhưng Thượng đế biết.” Có lẽ cần thêm: “Và Thượng đế biết những kẻ đã giết họ.”
Những nạn nhân ấy đòi hỏi Công Lý, chứ không xin được giải oan. Công lý không chỉ cần cho người sống, nhưng cũng cần cho những người đã bị giết chết như những con vật không phương thế tự vệ.
Không có Công lý, khi kẻ giết một người thì bị trừng phạt, có khi phải đền mạng, còn kẻ giết hàng triệu người lại được đúc tượng, xây lăng, ướp xác.

Hà Nội, tháng 12/2011.

dimanche 11 décembre 2011

Việt Nam Quê Mẹ Oan Khiên CH-01


Pierre Darcourt

   CHƯƠNG MỘT

MỘT NĂM SỬU THUẬN LỢI

Một không khí yên lặng hết sức lạ lùng và kinh ngạc đang đè nặng trên cánh đồng rừng nầy của Miền Nam Việt Nam.

Vào lúc 8 giờ sáng ngày thứ bảy 27 tháng giêng năm 1973, cuộc chiến dài nhất thế kỷ (từ hai mươi tám năm nay) trên nguyên tắc coi như được chấm dứt.

Tôi đã chứng kiến cuộc chiến nầy một buổi chiều tháng chạp năm 1946 trên những con đường âm u của Hà Nội, những con đường đầy âm thanh vang dội của những tiếng nổ, của những loạt súng đại liên và những tiếng reo hò của những Tự Vệ Quân (dân quân của Võ nguyên Giáp) đang tấn công vào các khu vực của người Pháp.

Cũng có thể tôi đã nghe thấy được cuộc chiến nầy chấm dứt ở một nơi nào đó cách Sài Gòn khoảng 2 giờ lái xe, lúc tôi đang ẩn náu trong một lô cốt ở Đèo Chuối, trên đường đi Dà Lạt. Tôi đã cùng uống chung một lon bia với một hạ sĩ quan thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa còn rất trẻ, có thể anh nầy chưa chào đời khi cuộc chiến bùng nổ.

Cái tiền đồn nơi tôi đang có mặt bị bắn phá suốt đêm bằng hỏa tiễn và súng cối. Khẩu đại liên nặng ngay trên lô cốt đã bắn suốt mấy giờ liền.. Mùi thuốc súng nồng nặc đưa lên tận cổ họng đến tôi phải bị ho. Những tiếng nổ đã làm cho tôi điếc cả tai. Đạn pháo binh yểm trợ rơi xuống chung quanh đồn với những tiếng nổ ngắn và kinh hồn làm cho mặt đất phải rung rinh. Đến sáng thì tất cả tiếng súng mới im bặt Ngoài trờI ánh nắng ửng hồng đang lên chậm chạp trong làn sương mù. Sương ướt còn đọng trên các tàng cây to và bãi cỏ. NgườI chết cuối cùng của trận chiến cuối cùng nầy đang nằm oằn oại không còn nguyên vẹn trong một hố bom, đó là thây của một đặc công Việt Cộng . Những người Thượng mang gùi trên lưng, thân đen đúa gần như trần truồng trong mãnh vải thô sơ, đang đi xuống chợ,

Cuộc chiến ở Đông Dương đã thực sự chấm dứt hay chưa ? Dù muốn đù không, trên trận tuyến mà hai bên đang đối diện nhau thì cuộc chiến dai dẳng coi như được chấm dứt mà không giải quyết được gì cả, chỉ để lại cho các chiến binh đang nằm giữ chiến tuyến của mình một hương vị chua chát của một trận chiến mà không có một chút lợi ích nào hết .

Đây là một cuộc chiến duy nhất trong lịch sử mà chưa từng thấy có một chiến thắng quyết định nào, dù rằng cả hai bên của chiến tuyến bên nào cũng không ngớt lớn tiếng rêu rao là mình đã thắng trận.

Trọng lượng số bom đạn được dùng trong cuộc tranh chấp nầy đã vượt hẳn trọng lượng số bom đạn của tất cả các cuộc chiến tranh trước đây cộng gộp lại. Cuộc chiến nầy cũng được hai bên áp dụng tất cả các hình thức kỹ thuật tác chiến từ tân tiến đến cổ điển. Và cuộc chiến nầy cũng là bãi chiến trường điện tử đầu tiên . Các hỏa tiển đầu tiên có đầu đạn được hướng dẫn đã được xử dụng trong những điều kiện thật trong tác chiến. Cho tới bây giờ người ta chưa từng thấy có một sự tập trung nào quá nhiều chìến cụ có khả năng hủy diệt trong một thế đất nhỏ hẹp như thế, và ở đó đôi khi những vũ khí thô sơ nhất lại làm cho những trang thiết bị tinh vi hơn phải thất bại.

Một bên thì có những quả bom tinh khôn (laser) tự động điều chỉnh, những hỏa tiễn với đầu đạn biết tìm kiếm mục tiêu và những phi cơ vận tải khổng lồ.... Còn bên kia thì có từ những "bẫy cọp" bằng tre vót nhọn và những dòng người khuân vác đẩy xe thồ, những thùng quân vật dụng thả trôi theo dòng nước từ thượng nguồn và được vớt lên ở các lưới thép căng ở hạ lưu cách đó cả 50 cây số ngàn .... đến những đoàn xe vận tải nặng Molotova, những xe tăng lội nước, và những trạm "tên lửa" dấu kín rãi rác trong rừng bụi. Những cuộc tàn sát được bình tĩnh chọn lựa trước và được lạnh lùng lên chương trình trong máy điện toán... và những vụ giết người bằng mã tấu kèm theo hành động cắt xẻo tay chân hết sức ghê rợn ... nói chung.

Cuộc chiến nầy cũng có đủ mọi hình thức kỹ thuật về mặt hạn chế tầm sát hại của vũ khí, và những hạn chế nầy có thể còn gây ra nhiều mất mát về chiến cụ và nhân mạng hơn nữa không chừng. Cuộc tranh chấp nầy được phát triển ra vừa như một cuộc nội chiến vừa là một cuộc đối đầu quốc tế, ở đó các siêu cường có chỗ để thí nghiệm các loại vũ khí và chiến cụ tối tân nhất cũng như những chiến thuật chiến lược tân tiến nhất của mình.

Tuyên Truyền và Thông Tin đã giữ một vai trò quyết định. Qua truyền hình, chiến sự đã đến được khắp nơi trên thế giới; những hình ảnh đẫm máu và rất bi thảm của cuộc chiến được chiếu đến tận những nơi yên tĩnh nhất và được bảo vệ chặt chẽ nhất, đã làm rung động cả nước Mỹ, chia rẽ dư luận Mỹ, gây sự chống đối trong giới báo chí, đã gây ra nhiều cuộc biểu tình phản chiến, chống đối đến man rợ, và gây ra một ý niệm xấu cho tất cả các nước văn minh nhất trên thế giới.

Hoa Kỳ đã nhảy vào cuộc chiến mà không có một lời tuyên chiến trước và đã tung ra một lực lượng quân sự khá quan trọng . Đùng một cái, trong lúc các phi hành gia của họ đang tản bộ trên cung trăng, họ mới khám phá ra là đã từ lâu họ bị rơi vào một cái bẫy mã tấu và đang bị sa lầy, nên họ quyết định bằng mọi giá phải cố gắng thoát ra khỏi vũng sình mà không bị mất uy tín.

Vào năm 1969, trong đợt rút quân đầu tiên, môt anh lính còn trẻ thuộc lực lượng Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đã mỉa mai cao giọng đề nghị một cách vô liêm sỉ :

" Tại sao chúng ta không tuyên bố một cách giản dị là chúng ta đã thắng trận rồi, và nước Việt Nam đã hoàn toàn được bình định xong, nên chúng ta đi về nhà !"

Việc đã xảy ra sau đó đã cho thấy chú lính thủy nầy đã nói một câu gần như tiên tri, bởi vì phần chánh yếu đã được làm y như thế.

Cuộc chiến ở Đông Dương là cuộc chiến đầu tiên mà các trực thăng đã có một vai trò quyết định trong tác chiến. Vào một lúc nào đó người ta đã tung ra đến 5000 chiếc trực thăng trên không phận Miền Nam Việt Nam, đưa lực lượng Bộ Binh Hoa Kỳ lên hàng thứ ba của Không Lực thế giới, sau Không Lực Hoa Kỳ và Không Lực Liên Xô.



Trong thời gian tám năm rưỡi tham chiến của Hoa Kỳ, cộng sản Việt Nam đã tung ra hai cuộc tấn công lớn mà họ tin tưởng đây là những trận chiến có tính cách quyết định. Đó là cuộc "tổng công kích Tết Mậu Thân (1968) và cuộc xăm lăng chớp nhoáng mùa xuân 1972.

Lực lượng Hoa Kỳ và QLVNCH đã khởi xướng hai cuộc phản công: tấn công qua biên giới Cam Bốt và hành quân qua lãnh thổ Lào.

Từng được coi là người đã chiến thắng trong trận chiến Điện biên Phủ, tướng Võ nguyên Giáp cũng chỉ gặt được sự thất bại hoàn toàn trong cả 3 lãnh vực mà ông ta cố gắng muốn thực hiện. Đó là : sự nổi dậy ở dân chúng của các đô thị ở Miền Nam, chiến tranh du kích, và chiến tranh quy ước.

Nhưng vớI hành động vừa dấu kín số tử thương, vừa rút nhanh đám tàn quân về để kín đào bổ sung cho các đơn vị trong các khu rừng rậm trên đất Lào và trên dãy Trường Sơn, ông ta đã khôn khéo làm cho địch quân tưởng rằng quân cộng sàn đã thắng trận.

Cả Hoa Kỳ và VNCH chỉ thu lượm có 50% chiến thắng: vì bị giới hạn trong không gian và thời gian nên các cuộc hành quân không được phép thọc sâu hay mở rộng đúng mức để khai thác tối đa các thành quả chiến thắng được .

Về phía Hoa Kỳ, trong suốt chiều dài của cuộc chiến người binh sĩ của họ chưa bao giờ được thông báo đúng mức mọi sự kiện dù là nhỏ nhất, nhưng lại thường được thông báo hết sức sai lạc về những lý do thật sự của cuộc chiến.

Trái lại, về phía cộng sản, chưa bao giờ cán binh của họ lại không được giải thích cặn kẻ lý do của cuộc chiến hay được thông báo sai lạc về mọi diễn tiến đã xảy ra.

Khi rút quân, người Mỹ vẫn đinh ninh rằng họ đã làm tròn lời cam kết "trong danh dự". Họ đã phải chi ra hơn hai trăm tỷ mỹ kim cho cuộc chiến và mất đi 58.000 người tử trận (gồm cả khoảng 10.000 chết vì tai nạn linh tinh, từ tai nạn lưu thông đến bất cẩn trong việc xử dụng súng đạn)

Cộng sản Bắc Việt đã tàn phá hết đất nước Việt Nam của họ, đâu đâu cũng thấy nhà tan cửa nát, và họ đã mất đi trên 1 triệu người chết, mà không đạt được mục tiêu mà họ đã đề ra. Những cán binh (Việt Cộng) mà họ gài vào Miền Nam chỉ sống lẩn lút trong rừng thiêng nước độc hay trong bưng biền sình lầy, sống xa quần chúng.

Quân dân Miền Nam chiến đấu để bảo tồn sự toàn vẹn lãnh thổ của họ. Họ nhìn thấy đất nước của họ bị phân chia, và Chánh Phủ của họ được thành lập qua các cuộc bầu cử có sự kiểm soát từ bên ngoài. Họ giữ vững những thành phố hùng mạnh và thịnh vượng, kiểm soát 85% dân chúng, nhưng họ có một tổng kết cũng nặng lắm: 600.000 quân và dân chết trận, và 1 triệu ngườI tỵ nạn chánh trị . Và thật sự không thấy giải quyết được gì hết.

Những ai trong chúng ta người nào đã từng bị "dính líu" vào cuộc chiến nầy ngay từ đầu cho đến khi tàn cuộc thì sẽ giữ mãi những ấn tượng sâu sắc về những hình ảnh đau thưong khủng khiếp mà họ không bao giờ quên :

- Hình ảnh lúc khui những mồ chôn tập thể ở Hué, sau những cuộc tàn sát ghê rợn hồi Tết Mậu Thân (1968);

- Quang cảnh những đường sá hoang vắng dưới lằn lửa đạn;

- Những tù binh cộng sản nhớn nhác và đang bị đánh bom mặt mủi và đầu óc như nổ tung ra..;

- Những phi công Mỹ ngơ ngác tay đưa lên trời bị đưa đi diễu hành quanh thành phố Hà Nội dưới ánh đèn chớp của các phóng viên báo chí, mắt cụp xuống dưới những tiếng hò reo và những nắm tay giận dữ của quần chúng ;

- Những xác chết của Việt Cộng sình lên to tướng vì bị liên thanh điện bắn hạ như những con mồi của thợ săn, nhưng là con người;

- Những cơn địa chấn tàn phá có tánh cách hủy diệt của các pháo đài bay B.52, những cái nhìn sợ hãi, ngạc nhiên và không thể chịu nổi của những trẻ mồ côi....



Những thị trấn xa xôi hẻo lánh như Pleime, Dak To, Khe Sanh, AnLộc... từng bị bỏ quên trong những cánh rừng đèo heo hút gió nhất, ở giữa những rừng tre hay vườn cao su bạt ngàn, nằm chơi vơi giữa các ngọn đồi đất đỏ hoang vu... đột nhiên đã trở thành nổi tiếng trong một đêm nào đó, và rồi giờ đây lại bị chìm trong quên lãng trong thời điểm mà tất cả hình như đang đến hồi kết thúc.

Đã có rất nhiều kỷ niệm và luận cứ hiện ra trong trí tôi. Tôi thực sự đã sống với quá nhiều biến cố, với khá nhiều trận chiến hay bị vây hãm, từng đi theo quá nhiều võng cáng trên mảnh đất đầy tang chế và đầy rẫy thây ma nầy. Có lẻ tôi phải viết khoảng 20 quyển sách để giải thích những gì tôi đã chứng kiến và đã tìm hiểu. Tôi có thể nói về người Nhật (tôi đã chiến đấu chống Nhật), về các trận chiến ở Hà Nội, Lạng Sơn, hay ở Huế, về những phụ nữ người Pháp bị hãm hiếp, bị nhục hình hay bị chế dầu và thiêu sống trên vỉa hè của cư xá Jauréguiberry ..... Để làm gì ? Tât cả đều đã thuộc về dĩ vãng xa xôi quá rồi. Trong lúc đang có nhiều người chết và nhiều tấn thảm kịch rất gần đây...

Tôi nghĩ đến 3 người bạn của tôi, ba người chuyên viên quay phim:

- Larry Burrows, một người Anh trầm tĩnh đến lạnh lùng, thẳng tánh và gan lì, thích chạy như bay đến trước các trái bom rồi nằm ngửa ra để được nhìn thấy nó rơi xuống và chụp ảnh khi bom nổ.

- Huer, một người Pháp không bao giờ biết mệt mỏi là gì, bình tĩnh và bướng bỉnh, từng được giải thưởng Capa.

- Shimamoto, một người Nhật, mềm dẻo nhưng gân guốc, đa nghi và tự hào như một võ sĩ đạo.

Chiếc trực thăng chở họ bị đâm vào núi, cháy ở vài trăm thước cách cánh quân mà tôi đang đi theo, trên đất Lào. Không có một ai đến tìm được họ và xác họ được chôn vùi trong chiếc quan tài bằng sắt bẹp dúm dưới cành lá sum sê của cánh rừng bát ngát thích ăn thịt ngườI !.

Tôi nghĩ tới cuộc bắn giết ở Mỹ Lai với những bức ảnh ghê rợn của nó : 40 phụ nữ và trẻ em bị hành quyết, thân xác đầy vết đạn nằm ngổn ngang chết chung với nhau. Hoa Kỳ đã cho thụ lý hồ sơ và truy tố ra tòa án binh trung úy Calley, một sĩ quan xấu xí tráng vồ và ngoan cố.

Nhưng có ai bị khởi tố về một vụ tàn sát tập thể cả một làng người Thượng ở Dakson đâu ? Tôi đã đi xuyên qua làng nầy, một tiểu đoàn Việt Cộng đã tàn sát và tàn phá cả một ngôi làng bởi vì dân chúng trong làng nầy không ai chịu theo cộng sản, chân tôi bước đi qua những đống tro tàn còn ấm , ngập đến tận mắt cá , tro của các nhà tranh mà cộng sản đã đốt sạch bằng súng phun lửa của họ. 250 thi hài của đồng bào Thượng nằm rải rác khắp mọi nơi trên mặt đất, còn âm ỉ cháy nóng, trong đó có 103 trẻ em. Thật là một cảnh tượng ghê rợn, tàn ác, không thể chịu nổi, cảnh các tử thi sình lên rồi bị nướng phồng lên dưới ánh nắng mặt trời, tương tự như những con heo quay có đầu người .

Có những ai trong chúng ta lúc có mặt ở quanh vĩ tuyến 17 vào mùa xuân năm 1972, mà có thể loại bỏ được khỏi trí nhớ những hình ảnh của cơn ác mộng trên con lộ Quảng Trị ? Pháo binh của Cộng sản Bắc Việt đã tập trung hỏa lực vào hàng hàng lớp lớp người dân tỵ nạn đang chạy loạn về Hué : những trái đạn đã cày lên đám đông dân chúng kinh hoàng rất có phương pháp, đánh nát và lật qua lật lại các sọ người và các thi thể đàn bà và trẻ con, như các cục đất vậy. Đã có đến 20.000 người chết trên một khoảng đường tráng nhựa chỉ dài có 40 cây số ngàn : Mặt đuờng không còn màu đen của nhựa nữa mà được trét lên một lớp máu đỏ đã đen sạm vì máu đã khô lại.... 1

Từ Đèo Chuối, tôi đi lần xuống một làng lớn ở Gia Kiệm. Ở đây dân tỵ nạn người Bắc đang rong chơi ngoài đường. Trong một quán cà phê nhỏ, ngồi bên tô phở nóng, những người thợ rừng đang vừa ăn vừa nghe xướng ngôn viên của đài Tiếng Nói Hoa Kỳ ca tụng sự "ngừng bắn" với một niềm vui lây của một bình luận gia trận đấu bóng chày.

Tại Tân sơn Nhứt, các phi công trực thăng và phi cơ săn giặc Phantoms trong bộ đồ bay kỵ lửa, vứt cao các mũ lên trời, vui vẻ vỗ lưng nhau, chuyền tay nhau một chai cognac và cứ thế uống cạn hết chai vừa cười vừa hét vang : "hết rồi, anh em ơi ! chúng ta sẽ được về nhà rồi "

Ngay tại Sài Gòn khi đồng hồ vừa gõ 8 tiếng, tất cả moi hoạt động đều ngừng lại, lưu thông dừng hẳn lại, mọi người đứng yên lặng trong khi các binh sĩ đứng nghiêm, Miền Nam Việt Nam dành một phút mặc niệm cho một số lớn chiến sĩ đã bỏ mình trong chiến cuộc. Sau phút mặc niệm, các chuông nhà thờ đổ liên hồi trên khắp thủ đô Miền Nam Việt Nam . Cùng một lúc đó có tiếng vọng xa xăm của sự biểu lộ ồn ào nầy, các thành phố lớn của Hoa Kỳ cũng đã sống trong những phát súng mừng ròn rã, và theo một bản tin của thông tấn xã Tass thì Hà Nội mừng rở treo cờ trong một bầu không khí hoan lạc. Và Tổng Thống Nixon trong một thông điệp gởi cho quốc dân đã mở đầu bằng những chữ nói lên dư luận chung của tất cả mọi người có thiện chí : Một kỷ nguyên hòa bình mới đang bắt đầu cho nhân loại "

Một người thợ rừng bước đến gần chiếc máy truyền thanh, đặt trên một cái kệ, vừa đưa tay vặn tắt chiếc máy vừa lầm bầm khó chịu :

" Ông Nixon cứ đến đây rồi hẳn nói !, Con đường từ Sài Gòn lên đây đã bị cắt đứt gần ba chục cây số, và có trên mười xe vận tải đã bị giật mìn. "

Tôi phải chờ 48 tiếng đồng hồ mới về đến được thủ đô Sài Gòn của Miền Nam Việt Nam . Quốc lộ đã được mở lại sau nhiều trận đánh nhau ác liệt, dọc theo đường còn rải rác tử thi và xác xe cháy mà xe ủi đang dọn dẹp.

Ở Sài Gòn hàng trăm phụ nữ trầm lặng và nghiêm trang tay bưng lễ vật như một đám rước đi vào chùa Vĩnh Nghiêm đầy hoa và cờ xí ở ngay trung tâm thành phố. Trong nhà thờ Chánh Tòa tường gạch đỏ thẳm, hàng ngàn tín đồ công giáo chen chúc nhau quỳ dự thánh lễ lớn.

Các Phật tử và tín đồ Công giáo theo lời kêu gọi của các Sư và các Cha sở của mình, đã tổ chức một ngày cầu nguyện cho hòa bình, mà theo bản văn của lời kêu gọi là một "nền hòa bình không phải của Nga Sô Viết, cũng không phải của Trung Cộng hay của Hoa Kỳ mà là một nền hòa bình của Việt Nam. một nền hòa bình cho những người tự do, công bằng và trong tình anh em, hòa giải giữa dân tộc với nhau, vừa tìm lại được trên đất nước của minh "



Trước thềm năm mới (âm lịch), một năm Sửu thuận lợi, đó là một lời chúc tốt đẹp nhất.... Nhưng than ôi, những lời chúc tụng luôn luôn không bao giờ được thỏa mãn. Các trận đánh xảy ra gần như khắp mọI nơi. Tại Tây Ninh, thánh địa của đạo Cao Đài, sau 30 giờ tấn kích,một trung đoàn quân Bắc Việt đã rút lui để lại 300 xác chết ở vùng ngoại ô của thị xã. Tại Sa Huỳnh, một hải cảng đánh cá nhỏ dưới chân dãy Trường Sơn, có sự đụng độ ác liệt của hai sư đoàn Miền Nam Việt Nam; tại Đồng bằng sông Cửu Long, ở ven Đồng Tháp Mười và ở rừng U minh; trên Cao Nguyên Trung Phần, chung quanh đồn Ben Het của Biệt động quân ;

Ba trăm ba mươi bốn (334) trận tấn công của cộng sản vào lãnh thổ của Miền Nam Việt Nam được ghi nhận ngay trong 2 ngày sau khi Hiệp Định Ngừng Bắn Paris ngày 27/1/ 1973 được chính thức công bố....

Nền hòa bình ở Việt Nam vẫn chỉ còn là một ảo vọng!
--------------------------------
Chú thích của người dịch: Đó là đoạn Quốc Lộ 1 được mang tên là :Đại lộ kinh hoàng.

Việt Nam Quê Mẹ Oan Khiên CH-02
 
Pierre Darcourt

   CHƯƠNG HAI

HÀ NỘI ĐÁNH PHÁ UY TÍN CỦA SÀI GÒN

- "Là một người Việt Nam , tôi đã có biết qua cách xử sự của ông Henry Kissinger trước họ rồi , nên tôi nói chuyện đó cho cả người Do Thái và người Ai Cập biết là : " Hãy coi chừng phương pháp của ông ta, nguy hiểm lắm, nó không giải quyết được bài toán nào hết mà nó chỉ có né tránh vấn đề thôi".

Chúng ta đang ở vào tháng hai năm 1975 . Sự cảnh cáo nầy đáng được lưu ý lắm - vì đó là lời nói của ông Thiệu - một người không thiếu kinh nghiệm chút nào: năm 1972, ông đụng nhẹ với một ông Kissinger đang nóng lòng muốn chấm dứt cuợc chiến ở Đông Dương. Nhận xét của ông Thiệu thấy có vẻ hơi nghiêm khắc, và một phần vì mối hận của một nguyên thủ quốc gia đang bị gài vào quá nhiều khó khăn to lớn.

Nhưng sau hai năm thi hành ‘’Ngừng Bắn’’ vẫn không còn một ảo tưởng nào nữa ! Trên lý thuyết, cuộc chiến lẽ ra phải được chấm dứt sau khi Hiệp Định Paris tháng giêng năm 1973 được kỳ kết, nhưng chiến cuộc không bao giờ chấm dứt. Nó vẫn được tiếp tục và thường xuyên gây ra hằng trăm người chết mỗi ngày, và trong hai năm liền như vậy phải có hơn 150.000 nạn nhân. Và chiến cuộc nầy không nghiêng phần thắng lợi chút nào về phía các đồng minh của Hoa Kỳ. Ở Cam Bốt, Khờ Me Đỏ chận sông Cửu Long, cắt đứt đường lưu thông không cho các đoàn ghe tàu tiếp tế cho thủ đô Pnom Penh, đang bị bao vây và bị bắn hỏa tiển vào hằng ngày. Thủ đô nây vẫn còn sống được là nhờ một cây cầu Không Vận của Không Lực Hoa Kỳ.

Ở Miền Nam Việt Nam, lần đầu tiên cán cân quân sự nghiêng về phía cộng sản.Một nhà ngoại giao Nam Hàn làm việc tại Sài Gòn đã nói lên một cách tức giận:

‘’Nền hòa bình trong danh dự của ông Nixon hả ? - Nó chỉ là một sự gian lận dị thường của thế kỷ mà thôi !’’

Thật vậy, đến ngày nay hình như sau bốn năm và mười tháng thương thuyết hết sức vất vả và chán chường, Hiệp Định Paris chỉ là một sự mua bán hớ, hớ quá lớn mà thôi.

Nhưng ai mới thật sự có trách nhiệm về sự phá sản của Hiệp Định nầy ? Hoa thạnh Đốn hay Hà Nội ?

Muốn đánh giá trách nhiệm của Hoa Kỳ và của Bắc Việt, thì phải trở lùi lại một ít về dĩ vãng, và trước hết phải thử tìm hiểu xem tại sao và bằng cách nào mà hai đối thủ đó đi đến chỗ phải ký vào Hiệp Định Paris .

Vào cuối tháng ba năm 1972, Hà Nội tung ra một cuộc tấn công dữ dội vào Miền Nam Việt Nam bằng các sư đoàn thiện chiến của họ với sự yễm trợ của một lực lượng pháo binh phi thường và 700 chiến xa với gần 3000 bộ đội xe tăng vừa được huấn luyện xong 5 tháng thực tập ở trường Thiết Giáp Odessa bên Liên Xô. Sau vài thất bại liên tiếp ở địa phương lúc bắt đầu cuộc chạm trán, và mặc dầu có những sự tiên đoán bi quan nhất, Quân lực Miền Nam vẫn không bị sụp đổ. Họ vẫn giữ vững phần lãnh thổ của họ một cách đáng khen. Khả năng tác chiến của họ được củng cố rất vững mạnh.Trong vòng 3 tháng (từ tháng 5 đến tháng 7) 84.000 tân binh đã hoàn tất thời gian thụ huấn và đã kịp thời bổ sung đày đủ cho các đơn vị bị tổn thất. Sài Gòn thu nhận quá nhiều tân binh tình nguyện cho các đơn vị tinh nhuệ - Hải Quân, Nhảy Dù và Biệt Động Quân- đến đỗi Chánh Phủ phải cho ngưng phần trưng binh. Hoa Kỳ đã cung cấp một hỏa lực yễm trợ rất hùng hậu. Được gởi đến từ Hoa Kỳ để xung vào trận chiến có các đơn vị chuyên viên Mỹ trang bị hỏa tiễn chống tăng TOWS và các trực thăng võ trang ‘’Cobra’’ sát thủ rất đáng sợ của chiến xa địch. Không Lực Hoa Kỳ xử dụng các loại ‘’bom tinh khôn’’ được hướng dẫn bằng ‘’laser’’ hoặc bằng một hệ thống máy ảnh truyền hình được gắn thẳng vào đầu bom, nên đã đem lại một sự can thiệp hết sức chính xác và thật hữu hiệu hơn bao giờ hết.

Ngày 8 tháng 5, TT Nixon đã cho thả mìn phong tỏa tất cả các hải cảng Bắc Việt . Từ ngày 18 đến 29 tháng 12, Không Quân Chiến Lược Hoa Kỳ dội bom Hà Nội và Hải Phòng . Đến ngày thứ 9 của chiến dịch không tập ngắn ngủi nhưng rất dữ dội nầy, tất cả hệ thống phòng không Bắc Việt đều bị sụp đổ. Tất cả các vị trí ‘’ra đa’’ đều bị triệt tiêu, các sự liên lạc vô tuyến điện thoại hoàn toàn bị rối loạn. Mọi sự cố gắng để bổ sung hay thay thế 1.200 hỏa tiển SAM được bắn đi trong vòng 8 ngày qua trên thực tế đều được coi như không thể thực hiện được vì số hỏa tiển dự trữ đã cạn mà các hải cảng thì đã bị khóa chặt. Đến đỗi trong hai ngày chót của cuộc không tập, không có một B.52 nào bị bắn hạ. Và giả sử như cuộc không tập không được chấm dứt ngày 29 tháng 12 thì gần như có thể các pháo đài bay của Hoa Kỳ đã san bằng Miền Bắc và có thể Bắc Việt bị hành tội thế nào cũng được .

Một chi tiết rất có ý nghĩa: Trong suốt thời gian Hoa Kỳ leo thang trừng phạt Hà NộI, về phía Mạc tư Khoa không nghe thấy có một lời chỉ trích hay một tiếng phản đối nào !

Trên trận địa, sự tấn công của Bắc Việt bị bẻ gãy. Trong 40 tỉnh thị của Miền Nam không có một nơi nào bị cộng sản Bắc Việt chiếm giữ được, trừ tỉnh Quảng Trị, mà các đơn vị nhảy dù của Miền Nam đã tái chiếm lại sau 6 tuần lễ tác chiến đẫm máu.

Vào lúc mà TT Nixon cho ngưng cuộc không tập ở Bắc Việt , không có một ai còn có thể nghi ngờ về thế thượng phong của Hoa Kỳ trên bàn hội nghị.

Nhưng trên thực tế, sự phản đối của dư luận ở Hoa Kỳ càng ngày càng tăng, và áp lực của Quốc Hội Hoa Kỳ đã buộc ông Nixon phải cho ngưng ngay hành động của Không quân chiến lược, và vì thế mà ông Nixon không khai thác được lợi thế của ông ta trên bàn hội nghị. Do đó ông không thể có được một sự nhượng bộ nào của phía Bắc Việt để có thể thực sự chấm dứt được chiến cuộc. Đó là: Bắc Việt phải rút hết quân số các sư đoàn Bắc Việt đã xâm nhập và đang trú đóng ở Miền Nam .

Sự thực là hầu hết người Mỹ bị ảnh hưởng vì các chiến dịch có hệ thống của báo chí; dân chúng Mỹ bị xúc động vì các cuộc biểu tình liên tục của các phong trào phản chiến đòi hòa bình; Họ quá mệt mỏi vì chiến cuộc kéo dài quá lâu mà không chấm dứt: Họ lo âu vì không thấy được viễn ảnh của hòa bình, một nền hòa bình ‘’công bằng và lâu bền’’. Cho nên họ đều mong muốn Hoa Kỳ nhanh chân rút ra khỏi ‘’vũng lầy Việt Nam’’, đem các phi công tù binh ở Bắc Việt và tất cả binh sĩ Hoa Kỳ ‘’còn lại ở Miền Nam’’ về nhà cho họ.

Hà Nội thấy rõ chuyện đó. Không cần đi sâu vào vấn đề, chỉ với một lời ‘’hứa suông’’ là chấm dứt chiến tranh, và đoan chắc là các tù binh Mỹ sẽ được hồi hương, là bảo đảm Chánh trị Bộ cộng sản Bắc Việt đã nhận được mọi sự nhượng bộ tối đa của Kissenger rồi.

Việc ký kết Hiệp Định Paris đã bảo đảm cho Bắc Việt một loạt lợi thế quan trọng. Thật vậy, Hà Nội đã đạt được :

(1) -một sự nghỉ ngơi tức thời, giúp cho Bắc Việt sửa chửa mọi thiệt hại lớn lao mà Không Lực Hoa Kỳ đã gây ra cho toàn bộ hệ thống giao thông và phân phối trong nội địa.

(2) - mở lại được các hải cảng, vì tất cả các ngỏ vào đều đã bị gài mìn từ 8 tháng nay, và do cuộc phong tỏa của Hạm Đội 7 mà mọi tàu bè thuộc khối cộng sản quốc tế đã bị ngăn cản không vào được hải phận Bắc Việt 1.

(3) -tất cả các lực lượng Hoa Kỳ đang ở Miền Nam Việt Nam phải rời khỏi nơi đây trong vòng sáu mươi (60) ngày và phải mang theo tất cả mọi chiến cụ.

(4) Ngoài ra, Hà Nội còn tự thấy mình được nhận thêm một phần thưởng, nhờ ở sự công nhận những ‘’lõm da beo’’ rất quý báu, những lãnh địa thực sự nằm trong lãnh thổ Miền Nam nhưng không thuộc quyền kiểm soát của Miền Nam Việt Nam , bao nhiêu lõm là bao nhiêu căn cứ xuất phát cho hành động quân sự của các đơn vị Bắc Việt trong tương lai.

Trong khi đó, Chánh Phủ Sài Gòn (VNCH) không được phép đòi hỏi một điều gì cả. Chánh Phủ nầy chỉ còn biết có một việc phản kháng trong mỗi cơ hội về sự duy trì bất hợp pháp của một ‘’lực lượng xâm lăng cộng sản 170.000 người ở Miền Nam Việt Nam ‘’

Hoa Kỳ, thỏa mãn vì cuối cùng được nắm trong tay bản văn Hiệp Định về hòa bình ‘’của mình’’, (nguyên văn của tác giả: ‘’son’’accord de paix), rất lấy làm thích thú về sự khéo léo của ông Kissinger. Một bản Hiệp Định dù là xấu vẫn còn hơn là không có một bản Hiệp Định nào ? 2

Cảm giác khoan khoái mang đến do sự ký kết ‘’Hiệp Định Ngừng Bắn’’ và sự trở về như trong chiến thắng của các phi công tù binh, được hoan hô, được choàng vòng hoa và tặng quà. . ., lên cao đến độ nếu có ai đó liều lĩnh nói lên một sự dè dặt tối thiểu nào, đều sẽ thấy mọi người coi mình như một ‘’thằng chống cộng điên khùng’’.

Thế nhưng chỉ cần nhắc lại là ‘’Hiệp Định năm 1962 về vấn đề trung lập hóa nước Lào’’, đối với Bắc Việt không có một lý do nào khác và không có một kết quả thực dụng nào khác ngoài việc bảo đảm cho họ được xử dụng đường mòn Hồ chí Minh, mà nếu không có con đường nầy thì Bắc Việt không bao giờ xâm nhập hoàn toàn tự do được các quân binh chủng của họ vào Miền Nam , để hỗ trợ cho các cuộc tấn công của bộ đội chánh quy Bắc Việt vào Miền Nam Việt Nam .

Tại Sài Gòn bài toán về quân số của việc ngừng bắn đã được đặt ra. ‘’ Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Ngừng Bắn’’ được thành lập cho nhiệm vụ nầy có một quân số là 1.160 người thuộc 4 quốc gia : Hung gia Lợi, Ba Lan, Gia nã Đại và Nam Dương. Với một quân số it ỏi như thế, trên một lãnh thổ rộng bao la với những khó khăn về địa thế mà Ủy Ban phải quan sát, tất cả đều hạn chế tối đa khả năng điều tra của Ủy Ban nầy rất nhiều .

Vào năm 1954, trong lúc các cuộc thương thuyết dẫn đến sự ký kết Hiệp Định Genève, phái đoàn cộng sản Việt Nam đã đòi hỏi phải giữ lại các đơn vị ‘’du kích quân’’ được đóng quân ở Miền Nam trong những nơi mà họ gọi là ‘’khu giải phóng’’. Một cuộc nghiên cứu trong lúc đó do các chuyên viên quân sự Pháp đã ước tính quân số của Ủy Hội Quốc Tế cần thiết để kiểm soát các khu đó phải lên đến 70.000 (!) dĩ nhiên còn nhỏ hơn vào năm 1973. Lúc bấy giờ đứng trước một sự khó khăn quá phức tạp như thế, ông Mendès France đã khôn khéo chọn giải pháp chia đôi nước Việt Nam . Và quân đội Pháp đã đưa (‘’tập kết’’) hết ra Miền Bắc các cán bộ và những đơn vị cộng sản đã hoạt động trong 9 năm ở Miền Nam.

Vào năm 1973, chẳng những các thành viên quốc tế đã quá ít mà Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Ngừng Bắn còn phải theo nguyên tắc ‘’đồng thuận’’ của cộng sản nữa. Do đó, trên thực tế điều nầy đã làm cho Ủy Ban không làm được việc gì cả. Những sáng kiến của hai phái đoàn Gia nã Đại và Nam Dương có thể bị phái đoàn Ba Lan và Hung gia Lợi ngăn cản bất cứ lúc nào. Không có một cuộc điều tra nào được tiến hành riêng lẻ, do những thành viên của một phái đoàn duy nhất nào đó đơn phương tiến hành.. Có một số thành viên thuộc phái đoàn Gia nã Đại đã liều lĩnh đi vào khu vực cộng sản sau một biến cố nào đó, đã bị bắt ngay lập tức, nhốt , và đối xử như những tù binh thường trong nhiều ngày.

Từ đầu tháng 3, cộng sản đã cho xâm nhập chiến cụ nặng và nhiều chục ngàn người vào các vùng thuộc quyền kiểm soát của họ ở Miền Nam Việt Nam. Đây quả là một sự vi phạm trắng trợn nếu không muốn nói là quá rõ ràng và công khai Hiệp Định Paris về Ngừng Bắn 1973.

Ngày 15 tháng 3, TT Nixon trong một buổi họp báo đã tuyên bố : ‘’chúng tôi đã nói cho Bắc Việt biết rằng chúng tôi rất đỗi quan tâm về những cuộc xâm nhập quan trọng như vậy, cũng như về các hành động vi phạm lệnh ngừng bắn mà Bắc Việt đã ký kết. . Bắc Việt không nên xem thường loại quan tâm nầy của chúng tôi .’’.

Một tháng sau đó, ông Nixon chuẩn bị tái oanh tạc Miền Bắc nhưng ông cho ngưng ngay lệnh đó đúng vào cái ngày mà John Dean ra làm chứng trước tiểu ban điều tra của Quốc Hội về vụ việc Watergate.



Tại Việt Nam, cộng sản với quyết tâm ngăn cản mọi công tác kiển soát trong những vùng mà họ đang xâm nhập và chiếm giữ bất hợp pháp, đã không ngần ngại bất chấp nguy hiểm đã tổ chức bắn hạ các trực thăng của Ủy Ban Quốc Tế bay đúng tầm của hỏa tiển với lý do là các trực thăng đó đã ‘’vi phạm vùng trờI’’ (danh từ của cộng sản ) của họ. (đáng kể nhất là những ngay 1, 7 và 9 tháng 4/73 và ngày 7/5/1973). Sau đó họ còn nã bách kích pháo và bán róc kết vào các thị trấn nào (trong những vùng yếu điểm của họ) đã có hay có dự trù cho các toán Kiểm Soát Ngừng Bán trú đóng, như Lao Bảo, Vị Thanh, Đức Cơ, Xa Mát, Ben Hét, Tri Tôn. Các Toán Quốc Tế Kiểm Soát Ngừng Bắn đã phải rút đi (hai toán Hung gia Lợi và Ba Lan bỏ đi trước nhất), trực thăng của Ủy Ban Quốc Tế vẫn còn đậu tại bãi đáp. Toán Gia nã Đại ngao ngán quá cũng phải rút đi vô điều kiện. Và Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Ngừng Bắn coi như vô hiệu, chẳng làm được gì !

Lúc bấy giờ Bắc Việt mới áp dụng chánh sách chuyển dân vào ở đầy các khu vực vắng người vừa rơi vào sự kiẻm soát của họ. Như vậy là Bắc Việt đã theo đúng chiến thuật ‘’Đồn điền’’ hay là di dân chìếm đất do những người Bắc đã áp dụng trong thế kỷ XV để xâm chiếm và chế ngự nước Chàm. Chiến thuật nầy gồm có việc cho xâm nhập vào đất địch từng nhóm dân-quân nhỏ để chiếm đất và làm quen với vùng đó. Nếu người chủ đất có đòi tài sản của họ thì người chìếm đất vừa đánh vừa kêu cứu với bộ đội Bắc Việt. Nếu mọi việc êm xuôi hay các khó khăn được giải quyết xong thì một toán khác lại được đưa tới xa hơn chút nữa. Tất cả các toán xâm chiếm đất đai nầy được nối kết với nhau thành một cấu trúc tỏa rộng ra bắt rễ từ biên giới. Các toán chiếm đất nầy tiến dần tới giống như các chân bám của vòi con bạch tuộc khổng lồ. Hà Nội núp sau bình phong chánh trị của cái gọi là Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam (GRP) đã áp dụng đúng phương pháp cũ của tổ tiên họ nhằm xâm chiếm và với mục đích chuyển các vùng đất chiếm được của Miền Nam, của Cam Bót và của Vương quốc Lào thành đất Bắc Kỳ (nguyên văn của tác giả: Tonkin), cũng như các ‘’ lõm da beo’’ mà họ đã giành được từ sau ngày ngừng bắn.

Hà Nội cứ tiếp tục bành trướng các sào huyệt không ai nhìn nhận đó, để lúc nào cũng hợp thức hóa được sự can thiệp của các đơn vị bộ đội Bắc Việt vì đó là những nơi cung cấp tin tức và yêm trợ tiếp vận rất cần thiết cho sự tiến quân của họ trong tương lai..

Trên phuơng diện chánh trị, đối với các quan sát viên không được thông báo trước , những cộng đồng vừa mới được tạo dựng nầy sẽ giúp cho Bắc Việt trình diễn về số dân chúng đối lập ‘’thực sự’’ của chế độ Sài Gòn . Nếu có bầu cử thì những cộng đồng nầy sẽ bảo đảm biết bao nhiêu là phiếu đối lập. Được tập trung dính liền với nhau và chặt chẽ bảo vệ dọc theo đường mòn Hồ chí Minh, những ‘’đồn điền‘’ nầy thật sự là một vùng bàn đạp được cấm sâu vào giữa miền Nam Đông Dương để từ đó các cấu trúc được mở rộng thêm ra.

Lần lần, nhờ các cuộc chuyển dân và đóng các chốt quân sự, các đại đơn vị cộng sản mới trú đóng được khắp các xóm làng. Đường sá và ruộng đồng được mở rộng thêm ra. Nền hành chánh được thiết lập sau đó. Các cán binh của Hà Nội ngụy trang thành dân chúng, được thúc đẩy lập gia đình tại chỗ với các thiếu nữ Miền Nam. Trong hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định, cũng như ở Cam Bốt, thì hình như cộng sản thành công trong kế hoạch nầy. Trong những vùng ít dân cư thì bộ đội được tái hôn với những thiếu nữ người Bắc được chuyễn vào Nam theo kế hoạch nầy (khoảng 10.000). Đôi lúc thì tự nguyện nhưng thường thì bị ép buộc, (đặc biệt là các nữ y tá, bác sĩ hay giáo viên) những cô gái nầy gốc người Miền Nam nên chỉ thích lập gia đình với cán binh người Miền Nam hơn. Trên thực tế, những cô gái Miền Bắc thường lập gia đình với các chàng trai Miền Bắc vì những chàng trai nầy thuộc số đông, và đã có với họ những mối tương quan về ngôn ngữ, phong tục tập quán, và ăn uống. Một vài phần tử gọi là ‘’cách mạng’’ người Nam còn được ở trong những vùng mới chiếm giữ đều đã quá tuổi 40. Một số người già từng được xử dụng trong bí mật, thường là độc thân, được giao cho trách nhiệm phụ và họ không sống chung đụng với người Miền Bắc . Sự chiếm hữu đất đai của Miền Nam cũng được tiến hành bằng cách chuyển nguyên các làng từ Miền Bắc vào. Những người Việt Nam định cư ở Lào và Cam Bốt từ nhiều thế hệ trước đã bị dời vào Miền Nam hoặc bị tập trung vào ở với những thương binh mà cộng sản Bắc Việt không thể di tản được và những tù binh chiến tranh già yếu được Chánh Phủ Sài Gòn phóng thích, để lập thành những vùng đông dân cư mới, có thể được nâng lên thành ‘’quận lỵ’’. Kế hoạch di dân bắt buộc nầy, sự thành công của hành động xâm chiếm ồ ạt và lặng lẽ nầy, đã liên hệ trực tiếp đến sự vô hiệu hóa các cơ cấu kiểm soát ngừng bắn. Điều náy giải thích rõ ràng cách thức mà Bắc Việt đã nhanh chóng và tàn bạo xử dụng để làm cho những thành viên quá tò mò của Ủy Ban Quốc Tế phải đứng xa ra khỏi vùng ảnh hưởng của họ.



Để đương đầu với chánh sách táo bạo và gây hấn nầy của Bắc Việt, để bảo đảm thi hành Hiệp Định Paris, phản ứng của Hoa Kỳ xét ra cũng không có gì lạ hết. Khi TT Nixon thử xin ngân khoản mới cho Cam Bốt, vào lúc Khờ Me Đỏ được 2 sư đoàn Bắc Việt tăng cường đang gây nhiều thiệt hại nặng nề cho phía Chánh Phủ thì Quốc Hội đã trả lời bằng cách bắt buộc Không Lực Hoa Kỳ phải chấm dứt oanh tạc vào các vị trí cộng sản bắt đầu từ ngày 15 /8/1973.

Vào tháng 11/1973, cũng Quốc Hội nầy đã bỏ phiếu chấp thuận Nghị Quyết về Quyền Lực Chiến Tranh, để ngăn cấm Tổng Thống Hoa Kỳ từ nay nếu chưa có sự chấp thuận của Quốc Hội thì không được phép xử dụng quân lực Hoa Kỳ để phòng thủ bất cứ phần đất nào của Đông Dương .

Vào mùa hè năm 1974, Tổng Thống Nixon từ chức vì vụ tai tiếng của Watergate. Lúc đó các dân biểu và nghị sĩ Quốc Hội mới xem xét kỹ các đơn xin viện trợ do Kissinger trình lên. Họ thấy quá cao nên họ cắt bớt viện trợ quân sự cho Việt Nam chỉ còn lại phân nửa.



Nhưng lúc nầy tình hình quân sự ở Miền Nam rất là trầm trọng. Tướng Cao văn Viên Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) rất lo ngại. Tướng Nguyễn khắc Bình, Giám đốc Trung Ương Tình Báo đã trình cho ông một bản phúc trình dài về tình hình dàn quân của các đơn vị cộng sản Bắc Việt ở Miền Nam . Phúc trình viết :

‘’Cuộc đe dọa về quân sự của địch đã hết sức là trầm trọng. Trong khi Hoa Kỳ giảm đến một nửa ngân khoản viện trợ quân sự cho Miền Nam Việt Nam, thì Liên Xô đã tăng cường gắp đôi phần chiến cụ của họ và phần viện trợ tài chánh cho Miền Bắc (1 tỷ 700 triệu mỹ kim cho năm 1974). Bắc Việt đã tiếp tục cho xâm nhập cán binh và chiến cụ từ Miền Bắc liên tục từ sau ngày ngừng bắn. Chúng tôi ước tính lên đến 80.000 cán binh, 600 chiến xa, 500 khẩu pháo và 200 khẩu phòng không, tất cả đều vượt vĩ tuyến 17 không qua các cửa khẩu do Hiệp Định Ngừng Bắn đã ấn định. Ngoài ra, trong số 30.000 tù binh vừa dân sự vừa quân sự được chúng ta trao trả theo đúng các điều khoản của Hiệp Định, thì hai phần ba (2/3) được bổ sung vào các đại đơn vị của Bắc Việt đồn trú trong Miền Nam. Số lượng chiến cụ và sự phân phối cấp phát được tăng thêm gấp bội: các đơn vị đều có phóng pháo xa 122 ly và hỏa tiển SA 7, 300 khẩu đại pháo 130 và 100 khẩu pháo 152 để tăng cường cho các đơn vị pháo binh tầm xa, và những đơn vị chiến xa T.54 . Quân số cộng sản bây giờ đã vượt quá mức quân số của họ trước cuộc tấn công năm 1972; 310.000 người trong đó có 170.000 cán binh và 60.000 cán bộ chánh trị gốc Miền Bắc. Bản đồ trận liệt của cộng sản được tái tổ chức như sau : 17 sư đoàn bộ binh với quân số đầy đủ đang đóng trong Nam (7 sư đoàn ở Vùng I từ vĩ tuyến 17 đến Đà Nẵng, 5 sư đoàn ở Vùng II, cao nguyên Trung phần, 3 sư đoàn ở Vùng III, giữa vùng Mỏ Vẹt tới Sài Gòn ,, và 2 sư đoàn ở Vùng IV trong đồng bằng sông Cữu Long và rừng U Minh. Trừ bị thì có 40.000 cán binh Bắc Việt đóng ở Cam Bốt và 50.000 đóng ở Lào)

Việc ngưng dội bom đã giúp cho Bắc Việt mở rộng và cải thiện tất cả các đường giao thông cũ của họ từ phía Nam vĩ tuyến 17 , đặc biệt là tất cả các tuyến đường dẫn về phía Đông của đường mòn Hồ chí Minh.

Tất cả các tuyến đường và lộ trình xâm nhập đêu được củng cố để có thể xử dụng được suốt 4 mùa. Công tác củng cố đã chẳng những đạt được bề dài mà cả khả năng lưu lượng của tuyến đường vớị 1500 xe cam nhông mỗi tuần, đã vượt mức cao nhất cho tới nay. Các đường liên lạc ngang cũng chưa bao giờ được bỏ qua.

Ống dẫn dầu đặt dọc theo đường mòn Hồ chí Minh được tăng lên gấp đôi và được kéo dài xuyên qua lãnh thổ phía Đông của Cam Bốt đến tận vùng ‘’Mỏ Vẹt’’, chỉ còn cách Sài Gòn có 80 cây số ngàn.

Cuối cùng 12 phi trường đã được thiết lập ở phía Nam vĩ tuyến 17, từ sau khi có lệnh ngừng bắn : 6 trong số đó có khả năng nhận những phi cơ thường và phi trường Khe Sanh được hỏa tiển SAM 2 và SAM 3 bảo vệ mạnh mẽ nhất, có thể nhận các phi cơ loại nặng và các Mig 21. Các trực thăng vận tải lớn do Liên Xô chế tạo đã được thấy lên xuống nhiều lần ở các phi trường nầy. Có nhiều chỉ dấu chính xác cho thấy một cuộc tấn công quân sự quy mô có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Tất cả những sự chuẩn bị đều xem như đã hoàn tất. Những kho dự trữ và các trạm tiếp vận lương thực đã được đặt xong, các bệnh viện hậu phương đã được bố trí sẳn sàng. Chiến trường cho mỗi sư đoàn cộng sản đã được tổ chức rất cẩn thận. Các vị trí cho cá nhân, cho từng loại vũ khí, các hầm trú ẩn, các trạm cứu cấp đã được đào và nghi trang rất cẩn thận, các mốc tác xạ đã được đặt xong, cự ly xa gần và máy nhắm cũng đã được tính toán xong. Về vấn đề nầy, chúng tôi xin nói thêm là các đường tiến quân dẫn đến tất cả các thành phố ở miền Trung và miền Đông của chúng ta có lợi thế cho các đơn vị tấn công Bắc Việt là nằm trong vùng rừng rậm, và dựa vào vô số đường mòn do máy ủi đất của những người làm rừng của chúng ta dọn mở ra từ trước . Tất cả các con đường nầy thường được dùng cho xe vận tải nặng chyên chở gổ súc, là những con đường tiến quân rất thuận lợi cho các chiến xa địch. Hệ thống các con đường mòn chằng chịt nầy đến một lúc nào đó sẽ giúp cho các chiến xa cộng sản thọc sâu nhiều mũi dùi bất ngờ xuất hiện vào tận hầu hết các vòng đai ngoại ô của mọi thành phố.

Sự kiện Hoa Kỳ cắt viện trợ quân sự của chúng ta đã đưa chúng ta vào một tình thế thua sút rõ rệt. Chúng ta cần phải tiết kiệm đạn dược. Các quân xa và phi cơ của chúng ta chỉ nhận được có 50% cấp số xăng dầu so với lúc trước. Thiếu cả cơ phận thay thế, gần 30% Không Lực chúng ta bị bắt buộc phải nằm ụ tại chỗ.

Bị bắt buộc phải giữ từng tấc đất mà không được dẫm chân vào chiến tuyến ngừng bắn, binh sĩ của chúng ta phân tán quá mõng, trong khi Bắc Việt là kẻ xâm lăng, lại được tự do tập trung lực lượng bất cứ chỗ nào mà họ muốn mà không lo sợ gì về một cuộc tấn công nào trên lãnh thổ của họ. ‘’

Bắc Việt đe dọa Miền Nam trên phương diện quân sự kèm theo áp lực về kinh tế lẫn chánh trị . Từ sau khi ký xong Hiệp Định Ngừng Bắn, nhà cầm quyền Bắc Việt đã làm đủ mọi cách để bẻ gãy nền kinh tế và tinh thần của dân chúng Miền Nam. Trước hết là họ vận động nhằm làm nản lòng đầu tư của ngoại quốc. Để làm việc nầy, họ đã mở ra ‘’chiến dịch thảo luận’’ căn cứ trên 4 đề tài chính:

(1)- một nguyên tắc về pháp lý: Miền Bắc cuối cùng đã thắng Miền Nam . Sự khẳng định nầy cứ được lập đi lập lại hoài không mệt mỏi trong hai mươi năm liền cuối cùng thì đạt được ảnh hưởng.

(2) - một bằng chứng sai bét về pháp lý kèm theo một sự đe dọa: ‘’ Hiệp Định Paris về Ngừng Bắn đã công nhận cái gọi là Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam (GRP) như là Chánh Phủ hợp pháp duy nhất chính thức của dân tộc Việt Nam, mọi Hiệp Ước ký kết với Chánh Phủ Sài Gòn đều không có giá trị, và có thể còn bị xem là một ‘’xúc phạm’’ với nhân dân Việt Nam ‘’

(3) - duy trì thật sự mối đe dọa quân sự và một không khí mất an ninh. An ninh và ổn định chánh trị luôn luôn là những yếu tố tốt nhất để thúc đẩy sự đầu tư. Làm rối loạn trật tự công cộng và an ninh nội địa, cho thấy lúc nào cũng có mối đe dọa về một cuộc xâm lăng quân sự,. . . . tất cả đều ảnh hưởng đến doanh nhân, hơn nữa Âu Châu sống trong thanh bình đã gần 30 năm rồi .

(4) - Sự đầu độc của báo chí Phương Tây theo luận điệu cộng sản, hay có lợi cho luận điệu của Hà Nội lúc nào cũng tiên đoán hay thích thú mô tả ‘’sự sụp đổ hiển nhiên và không thể tránh được‘’ của nền kinh tế Miền Nam Việt Nam

Lập luận cứ thế được mở rộng ra : kinh tế thì không có giá trị, chánh trị thì bắp bênh, pháp lý thì bất bình thường và theo cái nhìn lịch sử và trong tương lai thì sẽ thất bại.

Sự tuyên truyền thâm hiểm nầy hướng về thế giới bên ngoài lại được mở rộng gấp đôi ngay trong nước bằng một loạt hành động trực tiếp nhằm gây xáo trộn và làm sụp đổ sự phát triển kinh tế của Miền Nam Việt Nam .

Bắn phá và tấn công đồn bót. Dùng pháo binh bắn phá, phục kích các đoàn xe . Từ một năn nay, trung bình hằng tháng, các vụ ám sát tăng từ 22 lên 48, các vụ bắt cóc từ 50 lên 120, các cuộc tấn công từ 200 tăng đến 320. Cộng sản cũng tìm cách làm giảm giá trị đồng tiền của Miền Nam Việt Nam , mức tiết kiệm của người dân bị rút xuống vì sưu cao thuế nặng của Việt Cộng và tiền chuộc nữa. (Thuế tài sản và thuế lợi tức , thuế chuyên chở, tù binh muốn được thả cũng phải đóng tiền : 100.000 cho một binh nhì.)

Hà Nội nuôi các thành phần xâm nhập bằng cách cho lưu hành tiền giả cùng với chánh sách mua bán phá giá. Cộng sản mua gom gạo ở các chợ của Chánh Phủ VNCH với giá rất cao rồi đưa về tích trữ trong vùng của họ, gây ra một sự thiêu hụt và lạm phát. Đến khi các hợp tác xã dưới quyền kiểm soát của họ bán gạo ra, thì họ bán với một giá rất thấp so vơi giá bình thường. Có đôi khi số gạo của hợp tác xã là gạo của cộng sản cướp giựt của dân chúng từ Cam Bốt.

Bây giờ thì Chánh Phủ Miền Nam đang trải qua một thời kỳ nguy kịch. Với ngân sách quân sự và kinh tế của thời bình, Chánh Phủ phải đưởng đầu với những chi phí của thời chiến. Và còn có gần 1 triệu dân tản cư lánh nạn đang chờ được giúp đở từ năm 1972.

Hành động giảm viện trợ bất thần từ phía Hoa Kỳ đã kềm hảm tức khắc mọi khuếch trương. Vật giá leo thang đến một nhịp độ tăng nhanh không thể nói được. Từ tháng giêng năm 1973, đồng bạc bị phá giá đến 8 lần. Không khí chánh trị và xã hội rất nặng nề. Một cuộc khủng khoảng trầm trọng do các lãnh tụ đối lập gây ra trong mấy tháng nay đã làm lung lay Chánh Phủ trong lúc Chánh Phủ đang cố gắng lo đối đầu với những chỉ trích từ mọi phía.

Mọi việc đã bắt đầu từ tháng 5 1974, với một bản cáo trạng chống tham nhũng của Cha Thanh, một linh mục thuộc dòng Chúa Cứu Thế, đại diện cho một giáo khu nghèo nhất vùng ngoại ô Sài Gòn . Bản cáo trạng sau đó lại được sự ủng hộ của 301 tu sĩ công giáo, nhằm tố cáo Chánh Phủ trong vấn đề buôn lậu và hối mại quyền thế của một vài tướng lãnh và tỉnh trưởng.

Vấn đề được đưa ra thảo luận ở Quốc Hội. Cả ThượngViện và Hạ viện bàn cãi rất sôi nổi và rất hứng thú, nhưng cuối cùng thì ngòi nổ cũng được tháo gở một cách khéo léo và vẫn có lợi cho Chánh Phủ, để lại cho thính giả của cuộc tranh luận một ấn tượng về sự tự do phát biểu đúng mức.

Tuy nhiên không vì thế mà có thể dập tắt được hành động của những người chống đối. Nó được tái phát trở lại, dữ dội hơn, tai tiếng hơn và có phương pháp hơn, và lần nầy thì mủi dùi chỉa ngay vào Tổng Thống Thiệu, gia đình ông, và các cộng sự viên thân cận nhất của ông.

Ngày 8 tháng 9, 1974, ‘’Phong Trào Chống Tham Nhũng, Cứu Quốc và Kiến Tạo Hòa Bình’’ cho lưu hành một bản ‘’cáo trạng số 1’’, cáo trạng đầu tiên của một loạt 3 cáo trạng, phơi bày thực sự ra ánh sáng những sự lạm dụng công quỷ và những lợi tức bất hợp pháp.

Các tác giả của bản cáo trạng cho rằng sự tố cáo nầy dựa trên những chứng tích không thể chối bỏ được gồm có 6 điểm:

(1) - Tậu quá nhiều bất động sản : mua một biệt thự của hãng Shell cho con trai giá là 40 triệu đồng, mua cho vợ một cơ sở thương mại cũ của Công Ty Đất Đỏ, 90 triệu đồng, và một nhà ở Thụy Sĩ.

(2) - Lợi dụng chiếm đất: Tổng Thống Thiệu sẽ làm chủ một miếng đất 3 mẫu ở Dalat , một miếng đất nữa gần Giá Rai, trên Quốc lộ 1, và khai thác ở Long Khánh nhiều trăm mẫu nữa;

(3) -Dùng công quỷ giao cho công ty Hải Long tích trử phân bón , giám đốc công ty nầy là ông Nguyễn xuân Huyến, anh em bạn rể của Tổng Thống Thiệu.

(4) -Vấn đề ‘’Bệnh viện Vì Dân’’ do bà Thiệu và ‘’Hội Phụ Nữ Việt Nam Phục Vụ Xã hộI’’ đứng ra xây cất. Việc xây cất bệnh viện nầy, có 100 phòng miển phí cho người nghèo là nhờ vào tiền lời của quỷ xổ số quốc gia và tiền bán số hàng do quan thuế tịch thu trong 4 năm qua. Bà Thiệu bị cáo buộc là đã ‘’chọn lựa bênh nhân’’ và ‘’điều khiển các bác sĩ’’

(5) - Buôn bán ma túy: dựa trên cuốn sách của người Mỹ ‘’Những Chánh trị gia của bạch phiến ở Đông Nam Á’’ mà tác giả là ông M.W. Mac Coy, bản cáo trạng chỉ đích danh tướng Đặng văn Quang, cố vấn đặc biệt của Tổng Thống Thiệu về an ninh phòng thủ, người đích thân điều hành việc bán ma túy ra nước ngoài với sự đồng lõa của những hệ thống quốc tế dính với băng Tiều Châu của người Tàu ở Chợ Lớn.

(6) - Việc bán gạo ở miền Trung: Chánh Phủ tài trợ việc chuyên chở gạo trong vùng nầy nhằm ổn định nhu cầu của dân chúng, và cũng để giữ giá gạo ở đây không cao hơn giá gạo tại Sài Gòn. Việc tài trợ nầy lên đến 40 triệu đồng mỗi tháng. Công chức của Chánh Phủ mua gạo với giá thật thấp và bán ra cho bọn buôn lậu ở địa phương để chia với họ tiền lời và tiền trợ cấp.. Người khai thác việc chuyên chở nầy là ông Phạm Sanh, giám đốc ngân hàng Nam Việt, và người chịu trách nhiệm phân phối gạo là bà Ngô thị Huyết, dì của Tổng Thống Thiệu.

Đài phát thanh Hà Nội và báo chí của Chánh Phủ Bắc Việt cũng như sách báo thân cộng được Bắc Việt tài trợ ở Ba Lê và Âu Châu đã phổ biến rất rộng rãi bản ‘’cáo trạng số 1’’ nầy.

Ở Miền Nam Việt Nam song song với hành động của đối lập, cán bộ cộng sản đã tiến hành phổ biến tràn lan khắp nông thôn dưới hình thức truyền đơn hay các tờ quảng cáo truyền tay.

Chiến dịch đánh phá uy tín nầy lúc đầu chỉ nhằm vào các thành phố lớn, lần lần được lan rộng xuống các tỉnh, là một đòn rất nặng đói với uy tín của Tổng Thống Thiệu vốn vẫn còn được lòng trong hàng ngũ quân nhân và nông dân .

Một số sự kiện được nêu lên trong bản cáo trạng cần phải được làm sáng tỏ lại. Cần có một sự giải thích thật rõ ràng và chính xác mà chỉ có đích thân Tổng Thống Thiệu mới cung cấp được . Những sự kiện khác được nêu lên không được đày đủ hoặc không đúng sự thât.

Thí dụ như việc bán gạo. Nhân vật chính chịu trách nhiệm là ông Phạm Sanh, giám đốc ngân hàng. Ông đã bị trừng phạt, đã bị câu lưu từ tháng bảy, tài sản bị tịch thu, các chương mục đều bị phong tỏa, và đang chờ ngày ra Tòa.

Vấn đề độc quyền phân bón cũng vậy. Chánh Phủ đã có phản ứng kịp thời, bằng cách cho lịnh bán hết phân bón và tái phân phối cho nông dân với ‘’giá chánh thức’’ . Phía đối lập cho rằng đây là một quyết định đáng khen, nhưng đó chỉ là một nhát kiếm chém xuống nước mà thôi. Vì những đại lý bán sỉ người Tàu có mặt khắp mọi giai tần kinh tế trong nước đã thu xếp để mua lại số lớn phân bón đã bán lại đó, đến lượt họ đem về trữ lại, bảo đảm trước là họ sẽ có một số lời khả quan rồi, vì thị trường hối đoái ngoại tệ cứ tiếp tục đi lên.

Như thế thì Tổng Thống Thiệu sẽ phản ứng ra sao đây ? Đối với sự cáo buộc của phe đối lập, trước hết ông đã trả lời bằng một diễn văn dài trên hệ thống truyền hình về tình hình chánh trị của đất nước và cuộc chiến đãu cho sự tự do, có đề cập đến những ‘’lời gièm pha’’ được tung ra về cá nhân ông cho đó chỉ là một chuyện dàn dựng có ác ý "của cộng sản , và của những kẻ hợp tác và đồng lỏa với họ’’ mà thôi.

Nhưng đối với những sự kiện quá nghiêm trọng như việc buôn bán ma túy của tướng Quang, vị cố vấn của ông, và chuyện lương lẹo về đất đai và lợi tức bất chính được gán cho vợ ông, thì ông lại không có nói một tiếng nào. Quân độI, dân chúng, người dân ngoài phố đã chờ đợi ở ông một lời bác bỏ những cáo buộc nầy. Do đó khi mà ông Thiệu tỏ ra quên hẳn và khinh thường không lý tới những chuyện đó thì ông không thuyết phục được ai hết.

-‘’ Tay của ông đã không được sạch sẽ nữa rồi !’’ đó là lời phê bình có chút miệt thị của một số sĩ quan trẻ đau khổ và chán chường..

Vậy ông Thiệu có thể làm được gì để phục hồi uy tín của ông đang bị lung lay trầm trọng ? và tháo gở được những cáo buộc của phe đối lập ? Một hành động giống lạ kỳ những gì đã dẫn đến cuộc đảo chánh tháng 11 năm 1963, và cái chết của Tổng Thống Diệm. Nguyên thủ quốc gia người công giáo nầy cũng là một người chống cộng tích cực. Nhưng dù là một con người rất thanh liêm và yêu nước trung thực, ông vẫn bị tấn công và đánh gục bằng một chiến dịch gièm pha vu khống, được tổ chức hết sức nhịp nhàng, có sự hổ trợ của một phe đối lập công giáo, tố cáo sự tham nhũng, lợi dụng quyền thế của anh em ông, của cha mẹ ông và của những người thân cận của ông. Được tiến hành âm thầm bên trong nhưng do bàn tay thiện nghệ của người Mỹ, chiến dịch đó đã đưa nước Việt Nam vào hổn loạn và làm cho cuộc chiến lại tái diễn.

Đến lượt người kế vị ông, Tổng Thống Thiệu, lại bị cáo buộc lạm dụng quyền thế và không làm tròn chức năng của mình. Vậy ông ta có bị đe dọa về một sự kết thúc tương tự hay không ? Một vài nhà phân tách thường hay liên hệ các diễn biến song song như vậy thì họ sẳn sàng tin . Dù muốn dù không thì tình hình ở Miền Nam đang sôi sục.

Sài Gòn với 4 triệu dân, thủ đô chánh trị ,hành chánh, kinh tế và quân sự, là nơi thu gọn tất cả các bài toán của Miền Nam Việt Nam với những mâu thuẫn, những mưu mô, sự phong phú và sự nghèo nàn của nó .

Một mặt, đây là một thành phố với những đường phố rộng thênh thang, ngổn ngang đủ loại xe hơi và xe gắn máy, với những công viên đẹp, với những công thự luôn được bảo trì rất cẩn thận, với những chợ búa đầy ấp lương thực, với một hải cảng tối tân có đầy đủ trang thiết bị , với một sân bay quốc tế và với những đường liên lạc viễn thông tuyệt hảo.

Mặt khác, với một vòng đai các lều tôle, lều cây, lều ván và giấy bồi, ở đó chen chúc nhau những người tỵ nạn nghèo khổ, không một việc làm, những binh sĩ đào ngũ và hằng ngàn người tàn tật.

Dính liền với thủ đô Sài Gòn là Chợ Lớn, một thành phố của 800.000 người Tàu, những chú con trời đã mọc rễ trong nước từ 3 thế kỷ nay, được tổ chức để thu lợi, là chủ ngân hàng, là trung gian mậu dịch, buôn bán đủ mọi loại kim khí, gỗ, gạo, tổ chức chuyên chở đường bộ và đường thủy, chuyên đầu cơ tích trử, cho vay, là nhà tài trợ cho các thú vui và các loại hàng lậu, cho tất cả những gì có thể mua được và tất cả những gì có thể bán được .

Ở ngay chính giữa tập hợp Việt Hoa nầy, có Dinh Độc Lập được binh sĩ Dù canh gát cẩn thận, có lưỡng viện Quốc Hội Thượng Viện và Hạ Viện, Tối Cao Pháp Viện , đài truyền thanh truyền hình và .. . một số bao chí phong phú.

Trung tâm điểm của tất cả là con đường Tự Do (Catinat cũ), với các khách sạn đồ sộ của nó, với những tiệm buôn tráng lệ, những tiệm nữ trang sáng chói, những quán rượu và phòng trà để tất cả những người chạy áp phe, các luật sư, những dân biểu, những người đối lập, những danh kỹ, những mật báo viên và những nhân viên đặc biệt.. . có nơi hội họp, trò chuyện, bàn mưu tính kế, mua bán đổi chác, trao đổi tin tức hay phao đồn ‘’tin vịt’’ và những ‘’đường dây tốt’’.. . .. đến độ có một dạng tin tức song hành, dựa trên những chuyện ngồi lê đôi mách và những chuyện dèm pha có chủ ý, nhằm xuyên tạc hay đi ngược lại với các thông cáo của chánh quyền thường được gọi với một danh xưng không mấy tốt là ‘’ra đi ô Catinat’’.

Cái gọi là ‘’rađiô Catinat’’ nầy, thường mớm cho các bài báo của hàng trăm ký giả suốt trong thời kỳ 8 năm Hoa Kỳ tham chiến ở đây, đã phần nào xuống cấp, không còn thích hợp nữa từ ngày ra đi của các thông tín viên ngoại quốc.

Bây giờ cái rađi ô nầy lại sống trở lại những giờ phút huy hoàng của nó.

Phía đối lập, bất ngờ về sự táo bạo và sự tự do trong phát biểu của mình sau khi tung ra chiến dịch đánh phá Tổng Thống Thiệu vừa rồi, đã chuyễn động, tự thấy phấn khởi và tưởng mình sắp đạt được chánh quyên bởi vì họ đã tố cáo được những yếu điểm và những sự lạm quyền của Tổng Thống mà không bị một trừng phạt nào hết.

Trong những cuộc họp mật và những vận động ngoài hành lang, phe đối lập đã chọn lựa và đưa lên những lý luận, liên kết với nhau, phân phối các chức vụ trong Chánh Phủ.

Các chỉ trích càng ngày càng nhiều . Báo chí phản ảnh ‘’tin tức chính xác’’ và thật khó mà phân tách được đó là giả hay thật : Tướng Nguyễn vĩnh Nghi - cháu của Tổng Thống Thiệu - đang là Tư Lệnh Vùng IV (Đồng bằng sông Cửu Long) là một người bất tài. Bà vợ của Thủ Tướng Chánh Phủ đã mua một lâu đài lớn bên Pháp với giá một triệu quan. Một vài ông tướng sẽ sẳn sàng giúp phe đối lập với binh sĩ của họ. Các cựu quan chức của cơ quan tình báo trung ương Mỹ (CIA) đã từng dính vào cuộc đảo chánh năm 1963, sẽ quay trở lại. Nhưng đề tài của cuộc nói chuyện trọng đại là chuyện ‘’thất sủng’’ gần đây, mà theo đó người sẽ rớt đài sẽ là ông Hoànng đức Nhã, Tổng Trưởng Thông Tin và Chiêu Hồi, người em họ của Tổng Thống Thiệu, người được mệnh danh là ‘’ông Tổng Thống nhỏ’’.

Ba mươi hai tuổi, cao 1 thước 83, với một thể lực của một tay ‘’anh chị’’ (nguyên văn: play-boy), kỹ sư, tốt nghiệp cử nhân chánh trị học, ông Hoàng đức Nhã là một người thật tiêu biểu cho đẳng cấp mới của giới kỹ thuật trẻ Việt Nam. Là một thể tháo gia, người năng nổ, làm việc không biết mệt, có phương pháp và có đủ tài liệu, nói thật trôi chảy cả tiếng Pháp và tiếng Anh, ông đã làm việc 5 năm như là thơ ký riêng cho Tổng Thống Thiệu trước khi được đề nghị vào chức vụ Bộ Trưởng . Là một kẻ thù cuồng nhiệt của cộng sản, ở cương vị mới ông đã cố gắng vận dụng tất cả phương tiện kỹ thuật mà ông sẳn có để bao che cho dân chúng và tách họ ra khỏi gọng kềm tuyên truyền của Việt Cộng. Và ông ta đã thành công.

Các địch thủ của ông trách ông đã ‘’bịt miệng’’ báo chí và ông đã vượt qua thực quyền của ông để can thiệp vào quá nhiều lãnh vực. Ông Nguyễn minh Đăng, một dân biểu trẻ người Bắc đã dùng diễn đàn để tố cáo sự ‘’lạm dụng quyền hành’’ của ông, qua việc đặt người ‘’thân cận’’vào các trung tâm tin tức được mở ra ở ngoại quốc, và xử dụng sai nguyên tắc công quỷ. Ông Nhã đã lạnh lùng phản bác lại bằng cách nhấn mạnh rằng tất cả những người mà ông ‘’che chở’’ đêu tốt nghiệp đại học, có một trình độ học vấn tuyệt hảo; Và bằng cách trưng ra đây đủ chi tiết rất chính xác của sự chi thu ông đã chứng minh rằng những chi phí của ông đã thấp hơn ngân khoản được ấn định.

Là một người quốc gia có tánh đa nghi, ông Nhã cũng là một người cộng tác khó tính và không mấy thích nghi đối với người Mỹ. Trong giai đoạn chót của cuộc thương thuyết tại Ba Lê, ông Nhã đã đương đầu với ông Kissinger, và đã cùng Tổng Thống Thiệu thảo ra bản quyết nghị nổi tiếng "Bốn Không". Sự giao dịch của ông với Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ cũng giữ được khoảng cách . Các cố vấn Hoa Kỳ làm việc tại Sài Gòn than phiền rằng từ sáu tháng nay ông từ chối không trả lời điện thoại cho họ. Được các nhà báo Anh quốc hỏi về thái độ đối xử ‘’quá cực đoan’’ của ông ông Nhã đã trả lời với một giọng khó chịu: "Người Mỹ là đồng minh của chúng tôi, tôi rất thích xem họ như những người anh em, nhưng tôi không muốn gọi họ bằng "Cha" !(nguyên văn: Papa)

Ông đã đệ đơn xin từ chức. Cùng lúc với 3 thành viên khác của Chánh Phủ, cả ba đều thanh liêm, rất giỏi và được kính trọng. Đó là các Tổng trưởng Tài Chánh, Kinh Tế, và Nông Nghiệp, họ cũng đã xin từ chức.

Trực diện với nhóm đối lập càng ngày càng lớn mạnh đang tổ chức chống lại ông và bài xích nhóm kỹ thuật gia trẻ đang cương quyêt tách ra khỏi hàng ngũ Bộ trưởng, Tổng Thống Thiệu bắt đầu giữ sự im lặng.

Bị chạm mạnh do các sự tố cáo công khai của các đối thủ và "đào tị" của những phần tử ưu tú trong Chánh Phủ , Tổng Thống Thiệu với gương mặt luôn luôn tươi tỉnh, khó đoán được ý nghĩ và rất bí mật, ông không bao giờ hốt hoảng. Là một chánh trị gia giỏi vận dụng, lanh trí, và đáng sợ, ông kiểm điểm lại các lá bài của ông trước khi có phản ứng. "Ta còn một số con bài chủ" ông vừa cười vừa tâm sự với những cộng sự viên thân cận.

Ông lạnh lùng kiểm lại các lá bài chủ của ông .

Trước hết là vị trí của người Hoa Kỳ . Mặc dầu ông Nixon đã ra đi, và sự chống báng của Quốc Hội Mỹ, thái độ của Tổng Thống Ford vẫn còn nhiệt tình và tốt bụng. Đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn , ông Martin, đã tỏ ra là một bạn đồng minh còn vững chắc và cương nghị, điều mà ông Bunker không có dù là ông ta đã giúp ông lên ghế Tổng Thống .

Về phía VNCH, hệ thống quân giai, được thiết lập từ những quân nhân chuyên nghiệp, được lựa chọn cẩn thận, đã nắm chặt quân đội trong tay. Không có một nguy cơ nào về một cuộc đảo chánh. Phe đối lập được dựa phần lớn vào các linh mục và các vị dân cử công giáo, nhưng ít được khối tín đồ đi theo vì họ không thích các tín hữu can dự vào vấn đề chánh trị. Do đó đối lập không mạnh như họ vẫn tưởng. Còn các phật tử (85% dân chúng) thì họ rất dè dặt và không tham gia vào các cuộc ‘’xuống đường’’.

Sau khi đánh giá kỹ lưỡng về những khả năng hành động của mình, Tổng Thống Thiệu mới đi đến quyết định ‘’hành động’’.

Ông bắt đầu nắm chặt quân đội lại, (vì đó là cột trụ chống đở chính của chế độ) , bằng cách tái phối trí lại hệ thống chỉ huy và thanh lọc hàng ngũ sĩ quan. Ông vẫn giữ lại tướng Ngô quang Trưỡng trong chức vụ Tư lệnh Vùng I Chiến Thuật (Huế và Vùng Phi Quân sự ), người đã bẽ gảy cuộc tấn công của cộng sản năm 1972. Ông đề nghị tướng Phạm văn Phú giữ chức vụ Tư Lệnh Vùng II (Vùng Cao Nguyên Trung Phần), ông nầy là người hùng Việt Nam trong trận Điện biên Phủ. Ông chỉ định tướng Dư quốc Đống vào chức vụ Tư Lệnh Vùng III (khu Tam Giác Sắt và Khu Mỏ Vịt) , một cựu Tư Lệnh Binh Chủng Nhảy Dù, một tay chiến đấu gan lì và sừng sỏ của vùng rừng núi. Ở Vùng IV Chiến Thuật thì ông đã cho tướng Nguyễn khoa Nam thay thế tướng Nguyễn vĩnh Nghi, người cháu của ông,. Tướng Nam cũng thuộc binh chủng Nhảy Dù mà là kỷ thuật gia của chiến thuật trực thăng vận. Ba trăm sáu mươi bảy (367) sĩ quan cấp tá xét thấy không đủ khả năng hay tham nhũng được cho về hưu hay xoá tên trong danh sách cán bộ.

Sau phần quân đội là đến phần chánh trị và dư luận. Dự luật giao toàn quyền hành động cho Tổng Thống Thiệu vừa được thông qua và ban hành. Rất nhiều biện pháp được Quốc Hội thông qua, đã mở đường cho các đảng phái chánh trị được hoạt động trở lại. Sự kiểm duyệt đang đè nặng báo chí đã được tháo bỏ. Một Chánh Phủ mới được hình thành. Nhưng sau khi các biện pháp mở rộng vừa được ban hành thì Tổng Thống Thiệu lại có thái độ cứng rắn, mời phe đối lập hãy hành động trong tinh thần xây dựng và trong khuôn khổ luật pháp quốc gia , qua Quốc Hội (Thượng Viện và Hạ Viện) vào dịp bầu cử lập pháp sấp tới, qua các tòa án (bằng đơn tố cáo) và qua báo chí. Chiến dịch trong sạch hóa được tiếp tục, hàng Bộ trưởng và các công chức cao cấp làm không tròn nhiệm vụ sẽ bị điều tra và nếu có đày đủ bằng cớ chứng minh đúng theo đơn tố cáo thì họ sẽ phải được truy tố và xét xử.

Tất cả đều xong hết, ông còn xác nhận là tất cả những cuộc biểu tình được xem như hành động phá rối trật tự công cộng và sẽ bị trừng trị nghiêm khắc. Nhiệm vụ của các linh mục không phải để tấn công cảnh sát ngoài đường phố hay để lớn tiếng rao giảng bằng loa sự bất phục tùng, mà phải chăm sóc cho giáo khu và các nhà thờ của họ. Tương lai chánh trị của nước Việt Nam được bảo đảm bằng máu ngoài chiến trường chớ không nên bàn cãi trên hè phố.

Bị phản đối, vì không có người cầm đầu thực sự, nên phe đối lập thất bại không kéo dân chúng nổi dậy được . Những cuộc biểu tình lớn dự trù và được thông báo trước không thực hiện được . Linh mục Thanh đã ước muốn động viên tất cả dân chúng trong cuộc chống phá lớn nhưng cho tới giờ nầy chỉ mới có được vai cuộc quậy phá nhỏ. Cơn khủng khoảng coi như bị bóp nghẹt. Ngưòi em ruột của Thủ Tưóng, người cầm đầu cơ quan chống buôn lậu, vừa bị bắt giam.

Tổng Thống Thiệu có thể tiếp tục lo cho cái mà ông gọi là "những vấn đề của đất nước". Và trước hết là chuẩn bị cho cuộc bầu cử Tổng Thống dự trù vào năm 1976. Ông không thay đổi quyêt định : ông sẽ ra ứng cử . Bất chấp những phúc trình bi quan dồn dập gởi tới cho ông, Ông Thiệu vẫn tự tin là có khả năng thành công vượt qua khỏi trở ngại của một nhiệm kỳ thứ ba. Mặc dầu có nhiều sự nguy hiểm trước mặt ông, ông vẫn nhất quyết nghĩ rằng ông là "người hoa tiêu có đủ điều kiện nhất để lèo lái con thuyền Việt Nam"

Vào thàng hai năm 1975, ông viết cho Tổng trưởng tài chánh rằng:‘’Viễn ảnh kinh tế đã cho thấy phần bất lợi đã giảm, Bằng mọi giá ta phải thu hút vốn đầu tư ngoại quốc. Tất cả nỗ lưc của ông phải được dồn hết vào việc nầy. Không cần phải quảng cáo. Hồ sơ của chúng ta đã tốt rồi. Thị trường của Miền Nam đã trên hẳn mức trung bình ở Á Châu. Với dân số 20 triệu , mà hết 9 triệu nhân công chúng ta đã hơn hẳn Úc Châu, Hong Kong, Mã lai Á, Tân gia Ba và Đài Loan rồi. Giá thuê nhân công rẻ là một cái lợi thế rất quan trọng cho các cuộc đầu tư ngoại quốc. Và một số lớn nhân công của chúng ta lại có khả năng nói tiếng Pháp và tiếng Anh. Chúng ta có sẵn 100.000 thợ chuyên môn, 10.000 thợ máy và nhân viên điều hành đã được huấn luyện để coi sóc các dụng cụ máy móc có phần phức tạp hơn là tàu bè và trực thăng nữa. Con số chuyên viên kỹ thuật có giá trị (từ tin học đến máy móc) cần thiết cho kỹ nghệ sẽ rất cao khi cuộc giải ngũ có thể xảy ra. Trang thiết bị cho ngân hàng khá nhiều và nhân viên cũng thành thạo. Đó là những luận cứ mà từ đó ông phải triển khai ra thêm. Tôi đã viết thơ cho Tổng Thống Ford để nói với Ông ta rằng một sự viện trợ đúng mức trong 3 năm là quá đủ để bảo đảm nền độc lập của chúng tôi. Chỉ 3 năm thôi, không quá một ngày nào !’’

Vô ý thức ? Mộng du chánh trị hay lạc quan của lãnh đạo để kích thích các cộng sự viên kém nhiệt thành ?



Trên thực tế, sự táo bạo của Tổng Thống Thiệu trong cách tính toán của ông và lòng tin cứng rắn của ông đối với tương lai của đất nước ông đều dựa vào một cuộc khám phá huyền diệu ngoài khơi bờ biển Miền Nam Việt Nam : dầu lửa .

Phải, đã có dầu lửa ở ngoài khơi Vũng Tàu và đảo Poulo Pajang. 6 mũi khoan, mũi nào cũng trúng đích ! Như vậy người dân Miền Nam Việt Nam và Tổng Thống của họ có quyền mơ ước : Sáu giếng dầu mà khai thác từ năm 1977 sẽ đem lại lợi tức là một tỷ mỹ kim! Nhưng còn cần phải giữ vững được từ nay cho đến ngày đó. Vả lại 3 năm cũng không lâu lắm.

Nhưng ở đây thì coi như dài vô tận !

Bởi vì để chống lại cơ may phồn thịnh phi thường của Miền Nam, Hà Nội chỉ có một mong cầu : chiến tranh.

Ngày 6 tháng giếng năm 1975 : một hành động gọi là ‘’trừng trị’’ đã vang dội khắp nơi: lực lượng cộng sản Miền Bắc đã công khai tiến chiếm tỉnh Phước Long giữa đồng trống, chỉ cách Sài Gòn không hơn 65 cây số ngàn về hướng Đông Bắc. Sự thụ động của Hoa Kỳ sau hành động vi phạm nghiêm trọng Hiệp Định Ba Lê về Ngừng Bắn nầy đã được Hà Nội coi như một trắc nghiệm rất có lợi cho một cuộc tấn công mới. Vào lúc đó sự từ khước của Quốc Hội Hoa Kỳ về một ngân khoản 300 triệu mỹ kim viện trợ quân sự cho Miền Nam do Tổng Thống Ford yêu cầu, được coi như một dấu hiệu chắc chắn "Mỹ sẽ không tái can thiệp vào Miền Nam Việt Nam nữa" vậy.
--------------------------------
Chú thích của tác giả: Hà Nội nhập cảng mỗi năm 1 triệu tấn ngũ cốc từ các nước thuộc khối cộng sản quốc tế, không kể thực phẩm khô cho cả quân đội nhan dân.
Chú thích của người dịch: Nhưng thật sự là một bản dịchko thiếu một dấu phẩy, từ bản văn tiếng Việt mà tác giả là cộng sản Bắc Việt.

Việt Nam Quê Mẹ Oan Khiên CH-03


Pierre Darcourt

   CHƯƠNG BA

CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH

Vào đầu tháng giêng năm 1975, một phái đoàn quân sự Liên Xô do tướng V.A. Jukilov Tham mưu trưởng quân đội Liên Xô cầm đầu, đến Hà Nội . Về bài toán Việt Nam Mạc tư Khoa và Bắc Kinh luôn luôn có cái nhìn tương phản với nhau. Từ năm 1954, Liên Xô đã thúc đẩy Hà Nội mở cuộc tấn công quân sự quy mô và quyết định để chiếm Miền Nam. Ngược lại Bắc Kinh thì lại khuyên Hà Nội chỉ nên tăng cường các khu vực đã giải phóng và tiến hành một cuộc chiến tranh gậm nhắm lâu dài (trường kỳ kháng chiến).

Lần nầy thì đề nghị của Liên Xô có phần thắng. Mạc tư Khoa vì không có ảnh hưởng gì ở Cam Bốt, nên mong muốn nắm trọn nước Việt Nam , một chế độ thân hữu có thể giúp cho mình có những căn cứ Hải Quân và Không Quân ở Á Châu.

Liên Xô đã khẳng định rằng thời cơ quốc tế đang rất thuận lợi nên đã cung cấp cho Hà Nội rất nhiều phương tiện có thể trang bị cho 55 trung đoàn chiến xa biệt lập, và hỏa tiễn, pháo binh phòng không, để tiến tới sự thành công. Các tàu hàng của Nga chở đầy ắp đạn dược đã chen chúc nhau ở hải cảng Hải Phòng.

Sau khi phái đoàn của tướng Jukilov rời khỏi Bắc Việt lại có một nhân vật cao cấp thuộc Bộ Ngoại Giao Liên Xô đến Hà Nội .
Đó là ông Nicolai Firyubin. Cứ mỗi lần mà Mạc tư Khoa quyết định tiến hành một hoạt động chánh trị quân sự ở một khu vực đặc biệt nóng bõng nào đó thì y như rằng họ phải gởi ông Firyubin đến đó.

Ngày 28 tháng hai, lại đến lượt tướng Yang Yung đẫn đầu một phái đoàn quân sự Trung Quốc đáp xuồng Hà Nội cho một cuộc ‘’viếng thăm dài hạn’’ Bắc Việt . Một sư đoàn đặc công Bắc Việt được thành lập ở Nam Kinh (miền Nam Trung Quốc) được đưa về đóng ở Thượng Du Bắc Việt . Bắc Kinh đã thỏa thuận cho ‘’một hành động giới hạn nhưng quyết định’’, mà mục tiêu đầu tiên là phải cắt đôi Miền Nam Việt Nam ra làm hai đoạn.

Như thế là kế hoạch của Hà Nội sẽ nằm ở giữa sự khuyến cáo của Nga và của Tàu.

Quân đội cộng sản Miền Bắc trước tiên sẽ chiếm vùng Cao Nguyên Trung Phần, sau đó sẽ cố gắng chiếm Hué và Đà Nẵng , nhưng họ sẽ chờ hết mùa mưa mới tấn công Sài Gòn và Đồng bằng sông Cửu Long, tức là vào mùa thu 75.



Lãnh đạo Bắc Việt rất lạc quan: quân đội của họ đã sẵn sàng hành động.

Tờ báo Học Tập cơ quan chánh thức của đảng cộng sản ở Bắc Việt đã phản ảnh đúng cái nhìn của đảng, cho thấy Hà Nội hoàn toàn ý thức được điểm rất thảm hại của Miền Nam khi Quốc Hội Hoa Kỳ quyết định từ việc cắt bớt đi đến đình hoãn luôn viện trợ quân sự và kinh tế cho Sài Gòn .

Vài ngày trước khi họ tung ra cuộc tổng tấn công có tên là ‘’chiến dịch Hồ chí Minh’’ đảng cộng sản rõ ràng đã rất thích thú ghi nhận là ‘’hỏa lực và sự khả dụng của các chiến cụ lưu động thuộc lực lượng Miền Nam đã giảm sút hẳn’’. Tình hình nầy cho thấy là dự trử đạn dược và bom đạn của ‘’quân đội bù nhìn’’ đã không còn đầy đủ và họ đang gặp nhiều khó khăn trầm trọng để tái lập các kho dự trử săng dầu, để bảo trì và sửa chữa các loại chiến xa, tàu chiên và vũ khí nặng mà họ thường dùng.’’

Ngày 10 tháng 3/75, hồi 3 giờ sáng, các đơn vị cộng sản đã mở một mặt trận mới trong vùng Cao Nguyên và tung ra một cuộc tấn công quy mô vào thành phố Ban mê Thuột , tỉnh lỵ của Darlac, nằm cách Sài Gòn 250 cây số ngàn về hướng Bắc.

Từ Ba Lê, nơi tôi đang ở, rất khó mà đo được tầm rộng lớn và diễn tiến của hành động nầy. Những tin tức đầu tiên từ Sài Gòn ‘’xác nhận là những trận đánh ở các đường phố đã bắt đầu trong đêm và vẫn còn đang tiếp tục’’ Theo phát ngôn viên của quân đội Miền Nam thì ‘’ lực lượng của Chánh Phủ và địa phương quân đã cố gắng chống lại một lực lượng địch quá đông

có chiến xa, pháo binh phòng không và một hỏa lực pháo thật hùng hậu bắn yểm trợ. Cuộc tấn công vào tỉnh lỵ đã được pháo binh hạng nặng và hỏa tiển bắn dọn đường trước thật dữ dội. Nhiều cuộc chạm súng đã diễn ra chung quanh phi trường cách thành phố 7 cây số ngàn.

Tất cả mọi liên lạc vô tuyến với Bộ chỉ huy tiểu khu đặt ở gần phi trường đều mất hết. ‘’. Cũng theo Sài Gòn thì vòng đai phía Nam của thành phố đã bị địch chiếm , nơi đây có gần 15.000 dân sanh sống. Không quân và binh sĩ của Chánh Phủ đã bắn hạ 8 chiến xa địch trong thành phố

và ở vùng ngoại ô.’’

Theo những tin tức đầu tiên nhận được thì chánh quyền Miền Nam ước tinh đây là một "cuộc tấn công quy mô nhất mà cộng sản đã tung ra từ sau ngày ký Hiệp Định Ba Lê về Ngừng Bắn năm 1973", và cho là tình hình "rất đỗi nghiêm trọng".

Nhưng Hoa thạnh Đốn không có một phản ứng nào hết.

Ngày thứ ba 12 tháng 3, một bản điện tín từ Hoa Kỳ xác nhận rất đơn giản là ‘’Theo kết quả thăm dò của viện Gallup thì có 78 % dân chúng Mỹ chống lại việc Quốc Hội tăng viện trợ cho Cam Bốt và Việt Nam, chỉ có 12% là chấp thuận’’

Ngày thứ tư 13 tháng 3, cũng theo Sài Gòn thì cuộc chiến ở Cao Nguyên vẫn tiếp diễn.

Ký giả Gerard Le Quang đã viết trong báo France soir như sau:

‘’ Trong khi các trận đánh ở Phnom Penh đang tiếp diễn, thì MTGPMN (Việt Cộng) chiếm một phần của thị xã Ban mê Thuột (160.000 dân), một thị trấn quan trọng trên Cao Nguyên, sau khi chiếm quận lỵ Đức Lập. Tấn chiếm như vậy là kháng chiến quân ở Miền Nam Việt Nam muốn ngăn chận một sự can thiệp của quân đội Sài Gòn vào Cam Bốt để giải vây cho Phnom Penh. Kế hoạch can thiệp nầy được sự không trợ từ Không Lực Hoa Kỳ đã được đề nghị cho Tổng Thống Thiệu gần đây. Vị nguyên thủ Miền Nam Việt Nam đã dự trù tiến tới một hành động như vậy. Ông hy vọng là sẽ có hai đường lợi: trên phương diện tài chánh ông sẽ được tăng cường một ngân khoản viện trợ từ phía Hoa Kỳ , trên phương diện chánh trị sẽ tăng cường được vị thế không chối cãi của người ngyên thủ quốc gia.

Sự tấn công của ‘’kháng chiến quân’’ đặt lại tất cả mọi vấn đề , từ nay quân lực Miền Nam có rất ít khả năng để hành động ở Cam Bốt. Ở đây người ta chỉ nói đến việc gởi 20.000 quân thuộc nhóm Khmer Krom mà thôi (binh sĩ gốc Khmer được huấn luyện ở Miền Nam Việt Nam được gọi là Khmer Krom) ‘’

Tôi tự hỏi từ đâu mà ký giả nầy nắm bắt được tin tức theo đó quân đội Miền Nam Việt Nam sẽ tấn công vào Phnom Penh ? và tại sao giống như những người khác, ông ta nhất quyết cho là "kháng chiến quân" những anh ‘’bộ đội chánh quy" thuộc một quân đội cơ giới chánh quy của Bắc Việt, được trang bị chiến xa, súng Phòng Không, hỏa tiễn và những khẩu pháo binh tầm xa hạng nặng?

Tờ báo Le Figaro còn nuôi dưỡng mãi một chuyện hoang đường tương tự: "14 thành phố, 13 quận lỵ và một tỉnh lỵ đã rơi vào tay của ‘’những người nổi loạn’’ từ khi Hiệp Định Paris được ký kết. Đó là chỉ do "lực lượng cánh tả ở Miền Nam" đánh bật từng chốt một do

quân đội của Chánh Phủ Miền Nam kiểm soát"

Tại miền Trung, dù sao, cuộc tấn công của cộng sản cũng có một tầm rộng lớn không thể ngờ được .Gần như đâu đâu binh sĩ Miền Nam cũng bỏ mất đất. Bốn tỉnh, ba tỉnh lỵ, gần hết vùng Cao nguyên đã bị đổi chủ. Một tỉnh thứ năm, tỉnh Quảng Trị, ở sát biên giới phía Bắc của Việt Nam đang di tản. Và nửa triệu dân chúng đang chạy về hướng Nam trên quốc lộ. Chỉ mới có mấy ngày, mũi dùi tấn công bất thần của cộng sản đã gây ra một sự xáo trộn hết sức lạ thường về những bản đồ quân sự và về vấn đề dân số từng được chánh thức đăng bạ ở Miền Nam Việt Nam từ trên 20 năm qua.

Vậy chuyện gì đã xảy ra ở đó ? Đâu là những lý do sâu xa và thực sự của sự sụp đổ thình lình của quân lực Miền Nam Việt Nam ?

Cho tới giờ nầy Chánh Phủ của ông Thiệu không có đưa ra một giải thích nào khác ngoài câu chuyện ‘’tái phối trí chiến thuật’’ lực lượng của mình. Và để cắt ngang mọi câu hỏi gây bối rối được nêu lên, phát ngôn viên Bộ Quốc Phòng đã xác định với báo chí rằng kể từ nay sẽ không có một bình luận nào về diễn tiến của các cuộc hành quân trong tương lai. Sự rút bỏ 4 tỉnh Kontum, Pleiku, Darlac và Quảng Đức nằm dựa lưng vào biên giới Lào và Cam Bốt, đã để mất vào tay cộng sản 4 thành phố quan trọng có phi trường và một hệ thống đường sá quá tốt, một lãnh thổ có rừng cây rộng lớn, có những vườn trồng trọt sung túc và những đồng ruộng phì nhiêu trãi dài trên 250 cây số ngàn bề dài và 150 cây số bề ngang. Đây là một hành lang chiến lược của Miền Nam Việt Nam vừa rơi vào tay của kẻ thù cộng sản mà trên thực tế không có một cuộc chạm súng nào .

Dường như Bộ Chỉ Huy Sài Gòn đã quyết định phải rút tối đa binh sĩ của mình và dân chúng về vùng bờ biển giàu có hơn, trú đóng ở những thị trấn dựa lưng vào biển, khi họ đứng trước một sự đe dọa do sự tập trung quá lớn của lực lượng cộng sản được trang bị quá hùng hậu về chiến xa, hỏa tiễn và pháo binh hạng nặng, để lại cho cộng sản những khu vực tuy rộng lớn nhưng ‘’trống rỗng’’, ở đó Miền Nam có thể xử dụng mọi phương tiện hỏa lực của Không Quân mà không sợ đánh nhằm dân chúng bạn lẫn lộn với các binh sĩ của mình.

Dân chúng trong những vùng bị đe dọa không cần phải được kêu gọi hay khuyến khích mới bỏ đi. Các nông dân và những kiều dân đã định cư ở Cao Nguyên từ năm 1960 hầu hết thuộc thành phần di cư người công giáo, đã từng chạy khỏi Miền Bắc ngay ngày hôm sau khi Hiệp ước Genève 1954 vừa được ký kết. Những người từ Quảng Trị và Hué chạy vào đây thì không bao giờ quên cuộc ‘’thanh trừng đẫm máu’’ có chọn lọc của năm 1968 (Tết Mậu Thân), lúc lực lượng cộng sản chiếm một phần của hai thành phố nầy. Một cuộc thanh trừng đến 6000 vụ hành quyết với phương tiện thô sơ trong vòng chưa đầy một tháng.

Tuy nhiên, sự rút đi bất thần của tất cả mọi hiện diện quân sự trên nhiều tỉnh yết hầu đã làm thương tổn nặng nề đến uy tín và tinh thần của cả dân chúng, Chánh Phủ Sài Gòn và QLVNCH.

Đường mòn Hồ chí Minh được Cộng Sản Hà Nội bảo vệ toàn diện không một xâm nhập nào đến được từ hai cạnh sườn. Do đó quân đội cộng sản kiểm soát toàn bộ phía Đông và phía Nam của Cam Bốt, tất cả dãy Trường Sơn và cái ‘’sân thượng’’ ngay trung tâm của nước Việt Nam . Họ có thể đổ ập bất cứ lúc nào xuống Dalat, một vùng trồng rau chính của Miền Nam , mỗi ngày cung cấp cho Sài Gòn 70 % rau tươi. Trú đóng trên các cao điểm và được trang bị cơ giới hùng mạnh, lực lượng cộng sản cũng có thể thọc một mủi dùi tấn công xuống biển để cắt đứt Miền Nam làm hai đoạn, qua hành động đó cụ thể hóa sự hình thành một ‘’nươc Việt Nam thứ ba’’.



Ngày 21 tháng 3,

Đài BBC, trước đây thường hay phát lại những thông cáo của đài Hà Nội , đã loan tin về sự di tản của thành phố An Lộc, ở cách Sài Gòn 100 cây số về hướng Bắc.

Vào năm 1972, An Lộc là nơi mà 5.000 binh sĩ của Miền Nam , trú ẩn trong sự hoàn toàn đổ nát của thành phố vì 70.000 quả đạn pháo đủ loại của cộng sản Bắc Việt , trong ba tháng dài đã chống trả và đánh bật tất cả các cuộc xung phong liên tiếp của 3 sư đoàn cộng sản Bắc Việt có sự yểm trợ trực tiếp của 2 trung đoàn chiến xa T.54. Bản thân tôi, lợi dụng được các chuyến bay tản thương, đã đáp xuống thành phố nầy và đã sống ở đó được vài giờ. Vì hỏa lực địch rất dày đặc, các trực thăng chỉ có 30 giây ở dưới đất - thời gian tối thiểu để những người trên trực thăng nhảy xuống, và những người khiêng cán đưa thương binh lên - sau đó là phải bay lên ngay. Cả thành phố chỉ còn là một đóng gạch vụn, ngổn ngang xác chiến xa T.54 bị lực lượng phòng thủ hạ bằng súng không giật, và hằng ngàn xác bộ đội cộng sản sình to lên trong những quân phục xanh tơi tả. Nhà thờ đã bay mất nóc. Cả trăm thi hài chồng chất lên nhau, đã thối rửa, giữa hàng ghế ngồi đã nát vụn và dưới chân bục thờ Chúa. Trước đó hai tuần, một chiếc T.54 của cộng sản đã dùng đại bác bắn trực xạ vào các tín đồ đang cầu nguyện ở đó, trước khi bị pháo xa 105 ly của quân trú phòng bắn hạ với máy nhắm ở cự ly số 0 .

Có nhiều binh sĩ Miền Nam bị thương. Rất nhiều người không chợp mắt được trong vòng 60 giờ. Nhưng tất cả các đơn vị trú phòng đều có một tinh thần sắt thép. Chúng tôi đang ở vào tháng 6. Vài ngày sau đó, Tổng Thống Thiệu đáp xuống An Lộc. Quân trú phòng bước ra khỏi hầm trú ẩn để hoan hô và bế bổng ông lên trong chiến thắng. Một đạo quân tiếp viện cuối cùng đã bẻ gãy vòng vây, và thành phố An Lộc đã trở thành biểu tượng cho lòng can đảm vô biên của quân dân Miền Nam Việt Nam . Các sự hư hại đổ nát đã được dẹp dọn và thành phố đã sống trở lại. Và bây giờ không đầy 3 năm sau chiến công oanh liệt đó, An Lộc di tản mà không có một trận đánh nào .

Vả lại, cũng không có một nơi nào có xảy ra trận đánh thật sự !

Ngày 24 tháng 3,

Cộng sản đã tiến tới được bờ biển. Nước Việt Nam coi như bị cắt làm đôi. Cố đô Hué thất thủ ngày 26, vẫn không được phòng thủ, Hué là nơi đã có hằng ngàn người chết năm 1968. Hué là nơi mà những đơn vị ‘’beo đen’’, đơn vị Dù và Biệt động Quân và sư đoàn Không kỵ nổi tiếng của Hoa Kỳ đã lùng sục từng nhà trong chiến đãu lúc đó.

Cuộc triệt thoái đã trở thành một cuộc tháo chạy, ‘’mạnh ai nấy chạy’’.

Sự sụp đổ nầy bao gồm hết cả miền Trung của Việt Nam , Đám đông dân chúng tỵ nạn hốt hoảng chạy loạn, lớn dần lớn dần như một con sông cuồn cuộn chảy, với quá nhiều hình ảnh đau thương không chịu nổi. . . . cuộc chạy trốn cuống cuồng của cà một dân tộc bị vứt ra đường, một cuộc chạy loạn dị thường, dòng người chạy loạn tràn ngập và kéo theo mọi thứ trên đường đi của nó, đã phân tán và nhận chìm các đơn vị đang có ý định chống trả và chiến đãu. Nhiều chị đàn bà la hét một cách kinh hoàng và vô vọng vì không tìm được con cái đi lạc, gần như trần truồng thiểu não và ngơ ngác giữa khối người chạy loạn. Nhiều cụ già ốm teo chỉ còn da bọc xương mệt mỏi kéo lê thân xác khô cằn và bị cháy nắng, lả người vì đường dài trong nóng bụi, buông mình té xuống mà không gượng dậy nổi, đang nằm yên chờ giờ chết.

Những hình ảnh đó cả thế giới đều mục kích ngay trên màn ảnh truyền hình của họ. Phản ứng đầu tiên của họ rất nhân đạo, rất tự nhiên , không kềm chế được . Họ run lên, sau đó họ tìm cách xin về nuôi hàng ngàn trẻ mồ côi .Không có lúc nào họ nghĩ rằng muốn bảo đảm tương lai của những đứa trẻ đó thì chỉ có một cách hay nhất là phải tìm cách cứu lấy cha mẹ của chúng.

Ở Sài Gòn, tờ báo Chính Luận có đăng một bài phóng sự quá rụng rời do một đặc phái viên từ Qui Nhơn gởi về :

‘’Không thể tưởng tượng nổi những giờ phút cuối cùng của thành phố đang tự trút bỏ hết đời sống của mình. Dân chúng cướp giật thuyền máy do binh sĩ canh giữ. Sau lưng họ vô số va li, thùng cây, rương hòm, quần áo trộn lẫn với giẽ rách được người ta vứt bỏ đầy trên bãi cát với hàng chục, hàng chục tử thi bé nhỏ gây nên một mùi hôi thúi không chịu được . Có nhiều bà mẹ vẫn còn ôm cứng xác chết của con trong tay mình. Trên những con đường dẫn tới hải cảng, những bé trai bé gái lạc mất hết cha mẹ đã cố kéo lê thân khô cằn đến tận bãi biển để rồi nằm chết lịm trên cát vì quá đói, quá khát và quá mệt mỏi.

Một cụ già mặc đồ đen ngồi dựa trên bến thuyền, kể lại hành trình chạy loạn từ Cao Nguyên: ‘’chúng tôi có trên hai trăm ngàn người trên lộ 7 B, gồm bốn ngàn xe vận tải chở đầy binh sĩ, hằng ngàn chiếc mô tô, xe ba bánh, xe cũ của người Tàu, xe đạp, và những người đi bộ. Có khoảng trên 100.000 người đi bộ, gồng gánh tất cả những gì mà họ có thể mang theo được, nào là gà nhét vào bị, nào là heo cột nằm trong gánh, nào là chó với sợi dây giắt theo. . . những người công giáo thì mang theo tượng ảnh Đức Mẹ và tượng Đức Chúa Trời. Con đường thì nhỏ hẹp chạy xuyên qua rừng giữa những bụi rậm và tre dày đặc không chen chân qua được. Chúng tôi không có một thức ăn, và tuyệt đối không có gì để uống. Chúng tôi đi suốt 3 ngày ba đêm như vậy. Một bộ phận công binh đi trước đoàn xe để sửa đường và sửa lại cầu hư vì chiến cuộc trong những ngày qua. Khi gần tới sông Ba thì từ trong cánh rừng xuất hiện một toán lính cộng sản có người cầm cờ đi đầu. người chỉ huy toán bộ đội ấy phát loa ra lệnh cho chúng tôi phải ngừng lại và phải đi trở về. Nhưng làm sao được bây giờ vì có quá nhiều người ở phía sau cứ đùn chúng tôi đi tới. Tất cả coi như bị dồn cứng lại thành một khối người không nhúc nhích được nữa, rất khó ra lệnh còn hơn là đối với một đàn trâu đang cúi gầm đầu xuống đất . Bấy giờ bọn cộng sản mới bắn vào chúng tôi với tất cả các loại súng của họ đang có..Được dấu kín trong rừng, các loại pháo nặng nhẹ, bách kích, súng không giật . . nã thẳng vào chúng tôi dọc theo con lộ đang bị kẹt cứng. Tất cả đều nổ đồng loạt. Một trái đạn pháo đã chém ngang con gái tôi và hai dứa con của nó. Trên đoạn đường dài 3 cây số thây nằm la liệt, lẫn lộn kẻ chết người bị thương. Hàng trăm xe đủ loại bị cháy, nổ ì ầm như người ta ném đạn vào lửa vậy. Tôi ôm đứa cháu chín tuổi trong lòng, và cố gắng chạy bừa tới đâu hay tới đó. Đứa bé rên rỉ, vì nó bị một mảnh đạn pháo xuyên qua lưng từ bên nầy sang bên kia. Nó khóc thét lên nhắc đi nhắc lại : ‘’ Ông ơi, ngực cháu bị thủng rồi đau lắm’’. Ròi đùng một cái, tôi không còn nghe nó nói gì nữa. Tôi nhìn lại nó thì đôi môi của nó đã đen hết rồi, và nó đã chết. Tôi tiếp tục bế nó để sẽ chôn cất nó cho phải phép. Khi vào đến thành phố, tôi rửa mặt cho nó ở một cái vòi nước đầu tiên, tôi cuốn nó vào một cái bị vải mới mà tôi mua với số tiền còn lại của tôi, và tôi chôn nó duới một gốc cây. Bây giờ thì tôi không còn gì nữa, người thân cũng không có để mà thuơng yêu và che chở. Tôi sẽ không rời khỏi đây đâu ‘’

Tướng Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ được Tổng Thống Ford gởi khẩn cấp đến Sài Gòn để đánh giá tình hình quân sự tại đây. Phát ngôn viên của Nhà Trắng, ông M. Ron Nessen, đã xác nhận là "cựu chỉ huy trưởng quân lực Hoa Kỳ ở Việt Nam" cũng có nhiệm vụ trao cho Chánh Phủ Sài Gòn một công điện qua đó Tổng Thống Ford muốn bảo đảm với Tổng Thống Thiệu là ông ta đã quyết định nỗ lực tối đa để được Quốc Hội "chấp thuận cho những ngân khoản cần thiết."

Nhưng Quốc Hội Hoa Kỳ không thấy và không nghe (nguyên văn của tác giả : đui và điếc) những nỗi thống khổ của một dân tộc bạn đang bị một tai họa giáng lên đầu và đang kêu cứu, và họ đã bỏ đi nghỉ hè cho đến ngày 7 tháng 4.

Không thể nào tả nổi cảnh hỗn loạn trên các con lộ ở Miền Nam Việt Nam được .

Ngày 29 tháng 3/75 :

Đà Nẵng, thành phố mà người Mỹ đã có trù tính trong vòng 8 ngày sẽ di tản hết dân chúng bằng một cầu Không vận khổng lồ trong lịch sử chiến tranh, số phận đã coi như bị bỏ rơi. Sáu trái đạn hỏa tiển rơi váo phi trường.. . . và cuộc di tản đương nhiên bị đình hoãn. Đà Nẵng là một thành phố với một hải cảng đầy ấp tàu thuyền, với một bán đảo được phòng thủ chặt chẽ, với một phi trường chiến lược, với một hệ thống kho tàng đầy ấp lương thực, đạn duợc và chiến cụ có thể kháng cự được trong nhiều tháng. Thành phố bị mất đi không một tiếng súng, và sự ra đi của những chiếc phi cơ và trực thăng cuối cùng đã tạo nên những cảnh tượng hết sức kinh hoàng. Đám đông người tỵ nạn ùa lại tranh nhau cố leo lên những chiếc phi cơ đã đầy ấp người. Một chiếc trực thăng cất cánh lắc lư làm rơi rụng mấy chùm người đang cố bám chặt vào hai gọng sắt dưới lườn, giống như những con sâu nhỏ đeo vào một con bọ hung lớn, làm cho họ rơi lả chả từ trên không, rồi rớt xuống đất bẹp nát từng đống nhỏ không còn hình dạng con người , máu me be bét.

Đán bà và trẻ con khóc lóc, gào thét, van xin, và cố gắng trèo lên một chiếc khác cũng đã đầy cứng người rồi. Có những báng súng đập vào tay và cánh tay của họ. Có một số đang cố bám vào lườn của môt chiếc Boeing đang gầm rú để cố bốc lên khỏi đường bay. Khi đến Sài Gòn người ta còn tìm thấy một tử thi bị xé nát của một người nào đó đang bị cuốn chặt vào hệ thống bánh xe hạ cánh của chiếc Boeing 707 nói trên.

Ba ngày sau khi Đà Nẵng thất thủ thì lại đến lượt Nha Trang ! Ở đây 300.000 người dân tị nạn còn sống sót từ vùng Cao Nguyên và từ các tỉnh miền Trung chạy về đã bị gọng kềm của chiếc bẫy sập cộng sản đóng kín họ lại.

Cam Ranh, một vịnh đẹp nhất vùng Á Châu cũng đang được di tản. Pháo binh Bắc Việt cứ tiếp tục nã đạn vào các đoàn người di cư đang chạy trốn cộng sản hướng về miền biển.

Lúc bấy giờ đang có một tình trạng mập mờ khó hiểu tại Hoa Kỳ . Quốc Hội thì vẫn còn đang đi nghỉ hè. . . . Tổng Thống Ford một ít lâu sau đó cũng bắt chước họ và ông hiện đang thong dong chơi "gôn" tại Palm Springs ở tiểu bang California.

Phần ông Phó Tổng Thống Nelson Rockefeller thì ước tính là "thật sự đã quá muộn" để muốn làm một việc gì đó cho Việt Nam , kể cả sự giúp đỡ cho dân chúng đang chạy loạn, và ông còn nói thêm một câu khích động hết sức vô liêm sĩ:

"Tôi nghĩ rằng có một số lớn những người nầy sẽ chết.. .. .. thật đáng buồn, thật quá bi thảm. Nhưng chúng tôi còn phải tiếp tục sống , và tiếp tục đi tới chớ"’

Đại sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam hiện còn đang ở Hoa thạnh Đốn đã lên án người Mỹ đã "không đưa được một ngón tay lên" để binh vực cho quốc gia mình. Ông nói "tôi nghĩ rằng khắp nơi trên thế giới nầy, mọi người đều có chung một kết luận rất bất lợi cho chúng ta . Có nghĩa là thà làm một đồng minh của cộng sản còn hơn là bất hạnh được làm đồng minh của Hoa Kỳ "

Tại Ba Lê, một đại diện của CPLTCHMN (GRP) lên tiếng mạnh mẽ tố cáo cái mà họ gọi là chánh quyền Ford và tập đoàn Nguyễn văn Thiệu đã "ép buộc dân chúng Miền Nam phải di tản’’ . Ông ta còn xác nhận là hàng trăm ngàn người đã nghe lời tuyên truyền xảo trá và bị hăm dọa dưới họng súng, đã bị bắt buộc phải lìa bỏ hết nhà cửa và nơi chôn nhao cắt rún của mình để được chết đói và chết bệnh trên đường di tản. Nhiều ngàn người khác vì không chịu chạy trốn đã phải bị hành quyết.. .!"

Đó là một đại diện không sợ phải nghiên cứu một sự nghịch lý, và hơn nữa cũng không nghĩ tới một sự đính chánh về những sự kiện đã xảy ra. Cái Chánh Phủ cách mạng lâm thời mà ông ta đang nhơn danh để tuyên bố đó, đã từng phủ nhận từ mấy năm nay về tư cách đại diện cho nước Việt Nam của ông Tổng Thống Thiệu, bỗng nhiên hôm nay đùng một cái, ông ta công nhận một thực quyền phi thường của vị Tổng Thống nầy là làm cho người dân tin theo.. .. .. .. một quyền lực tâm lý có khả năng di chuyển cả một khối lớn dân chúng, bắt họ phải rời bỏ nhà cửa ruộng vườn để đi về những thành phố cuối cùng dưới sự lãnh đạo ‘’độc tài" của mình. Ở vào thời điểm nào và bằng cách nào mà binh sĩ của Tổng Thống Thiệu đang bị tan rã không qua một cuộc chạm súng nào và đang cùng chạy trong đám dân chúng, lại có thể dùng họng súng của họ để bắt buộc hàng triệu người phải di tản, chạy về các sân bay hay các bến cảng đang lần hồi bị đóng cửa trước mặt họ ? Hàng chục ngàn người đã vì quá sợ binh sĩ Bắc Việt mà phải chạy đi, đã chết vì đói khát hay vì mệt lả, hoặc bị tàn sát một cách có phương pháp có tổ chức mà thân nhân của họ đã từng là nạn nhân ở Quảng Trị và ở Hué trong năm 1968. Nhiều ngàn và nhiều ngàn người khác đã bị hành quyết, bằng những quả đạn pháo đủ cở đủ loại của cộng sản trong những tuần lễ sau cùng nầy, khi Bắc Việt muốn ngăn cản không cho họ chạy đi.

Tại Sài Gòn , cuối cùng thì chế độ của ông Thiệu dường như được tính từng ngày. Người ta không thể tha thứ cho ông vì sau khi Ban mê Thuột bị thất thủ, ông đã cho lệnh rút tất cả quân đội từ miền Trung và từ miền Cao Nguyên : vội vàng và cẩu thả, hành động rút quân nầy đã dẫn tới một sự tháo chạy mà ngay như Bắc Việt cũng không bao giờ tiên đoán được .





Bị đối lập tấn công từ nhiều tháng qua bây giờ thì ông lại bị Thượng Viện bỏ rơi, một Thượng Viện đã từng cho ông một sự tín nhiệm hết sức rộng rãi. Sau 8 tiếng đồng hồ thảo luận, 41 trên 42 nghị sĩ hiện diện đã đứng lên chống "sự bất lực của chế độ’’ và đòi hỏi phải thành lập khẩn cấp một Chánh Phủ đoàn kết quốc gia gồm những nhân vật ‘’có khả năng, liêm khiết và đại diện cho dân’’ . Chánh Phủ mới thành lập nầy phải cộng tác chặt chẽ với Quốc Hội và các đoàn thể quần chúng, nhanh chóng làm việc trong mục đích tái lập lại sự ‘’ổn định quân sự, xã hội và chánh trị ‘’.

Tướng Nguyễn cao Kỳ, cựu Phó Tổng Thống và cựu Tư Lệnh Không Quân Miền Nam Việt Nam, đã về hưu từ năm năm nay đã đứng ra thành lập một ‘’Ủy Ban Hành Động để Cứu Quốc’’ và hô hào sự ra đi của Tổng Thống Thiệu. Cảnh sát đã phá được hai âm mưu đảo chánh và đã bắt giữ nhiều sĩ quan.

Nhiều điện tín sau cùng cho biết là đã có một sự hốt hoãng trong thủ đô Miền Nam Việt Nam . Tất cả những chuyến bay thường lệ rời Sài Gòn đã hết chỗ. Các ngân hàng bị khách hàng bao vây để rút hết tiền ra. Chỉ trong vòng có một ngày giá chợ đen đồng mỹ kim đã tăng vọt từ 700 lên đến 1600 đồng.

Vào giờ phút mà Miền Nam Việt Nam đang lung lay và bị đe dọa sẽ bị sụp đổ dưới sự tấn công dồn dập của các sư đoàn cộng sản Bắc Việt mà hình như không có gì kềm hãm sức tiến của họ được, có một trong nhiều câu hỏi đang làm bận tâm nhưng chưa thấy được nêu lên : trong trường hợp quân Bắc Việt thắng, thì những kiều dân Pháp và quyền lợi của nước Pháp chúng tôi ở đây sẽ còn hay không ?

12.000 kiều dân Pháp có một nhiệm vụ rất quan trọng trong đời sống của Miền Nam Việt Nam . Quyền lợi Pháp, được ước tình đến 1 tỷ 730 ngàn quan, được phân ra như sau:

- cơ sở kỹ nghệ (đầu tư và trữ kim) : 650 triệu quan Pháp

- các vườn cao su và xí nghiệp : 650 triệu quan

- trà và cà phê: 10 ngàn mẫu,

- doanh nghiệp: (đầu tư và trữ kim) 100 triệu quan

- xí nghiệp vận tải và nhà xe, vận tải đường sông và đường biển: 150 triệu quan

- ngân hàng , công ty địa ốc và bất động sản : 180 triệu quan

Các sự đầu tư nầy không những chỉ là những đầu tư ngoại quốc duy nhất có phần bền vững mà nó còn chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế của Miền Nam Việt Nam . Con số mậu dịch lên gần đến 800 triệu quan Pháp và phần đóng góp vào ngân sách của Miền Nam Việt Nam được khoảng 23 %.

Những sự đầu tư về kỹ nghệ của chúng tôi ít được dân chúng bên Pháp biết đến, phần lớn gồm có kỹ nghệ khá tân tiến của Miền Nam Việt Nam , gồm có các xí nghiệp mới nhất như: hãng Citroen, nơi đây đã lấp ráp những xe thông dụng trong năm qua, đặc biệt là xe La Dalat; xưởng sản xuất xi măng ở Hà Tiên; hảng Isostat (kỹ nghệ điện tử), các hảng Elf- Erap và C.F.P. dự phần vào công tác tìm dầu khí ngoài khơi bờ biển Việt Nam

Hơn thế nữa, các công ty hàng không của chúng tôi (Air France đang cộng tác với Air Việt Nam và U.T.A.), các công ty hàng hải (Messageries và Chargeurs Réunis) đang hoạt động bán độc quyền trong công tác chuyển vận quốc tế từ Việt Nam đến Nam Âu Châu và ngược lại.

Những lợi thế mà Lập Pháp ở đây đã dành cho đầu tư của chúng tôi , sự khéo tay của nhân công ở đây, vị trí địa dư thuận lợi cho khả năng xuất cảng, mối giao hảo tốt với nước Pháp và các nước bạn quanh đó (các nước nói tiếng Pháp) đã cống hiến nhiều viễn ành và điều kiện làm việc rất đáng được khuyến khích.

Ảnh hưởng văn hóa Pháp vẫn còn rất quan trọng. Tất cả thành phần lãnh đạo ở Miền Nam Việt Nam và hầu hết các cán bộ cao cấp đều nói tiếng Pháp. Những cơ sở văn hóa Pháp rất nhiều . Một viện văn hóa Pháp ở Sài Gòn , ba trung tâm văn hóa ở Dalat, Đà Nẵng và Nha Trang; sáu trường trung học (Yersin, Dalat, Blaise-Pascal, Đà Nẵng trường Trung học Pháp ở Nha Trang, trung học Marie Curie); trung tâm giáo dục Saint Exupery, trung tâm học vụ Colette ở Sài Gòn . Nước Pháp cũng giúp đỡ cho nhiều trường sở Việt Nam dưới danh nghĩa hợp tác văn hóa và kỹ thuật (trung tâm hướng dẫn học vụ, đại học văn chương và sư phạm của Sài Gòn và Hué, đại học Y và Dược của Sài Gòn, trung tâm kỹ thuật quốc gia Phú Thọ).

Con số học sinh và sinh viên ghi tên vào các trường sở nói trên lên đến 14.000, và nhân viên giảng dạy người Pháp là 272 người . Thêm vào đó còn có những trường khác, trường tư và trường đạo dạy toàn bằng tiếng Pháp : trường trung học Taberd (Sài Gòn ), trung học Fraternité (Chợ Lớn), Les Oiseaux (Dalat và Sài Gòn ), l’Alliance Francaise (Sài Gòn) . Các giáo sĩ và các dì phước có mặt khắp các bệnh viện, các trại cùi, các trung tâm xã hội và đã tận tụy hy sinh phục vụ mà không có một sự tính toán nào. Bệnh viện Grall, một trong những bệnh viện tối tân nhất của vùng Đông Nam Á, trong đó tất cả nhân viên có trách nhiệm (bác sĩ, giải phẩu, quang tuyến, dược sĩ và quản lý) đều là người Pháp, là một bệnh viện có danh tiếng không thể chối cãi được .

Tất cả các cơ sở đó, tất cả những nam nữ nhân viên đã dính líu thật sâu đậm vào đất nước nầy, tất cả những sự đóng góp về văn hóa và nhân đạo của nước Pháp. . . rồi đây sẽ còn lại những gì trong trường hợp có một chiến thắng của cộng sản ở đây ?

Bây giờ thì còn quá sớm để có thể ức đoán về tương lai, nhưng dù sao cũng có thể thiết lập được một sự so sánh với những gì đã xảy ra trong quá khứ ở Miền Bắc Việt Nam . Vào năm 1954, những quyền lợi của Pháp ở nước Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam lên đến 100 tỷ đồng quan cũ. Đến giờ nầy giao dịch kinh tế của chúng tôi với chế độ Hà Nội coi như không có gì cả.

Các cơ sở Pháp đều đã biến mất hết. Không có một cơ sở giáo dục nào ở cấp đại học hay cơ sở y tế nào còn hoạt động ở đó.

Con số kiều bào người Pháp chúng tôi từ gần 6.000 vào năm 1954, bây giờ chỉ còn có 21, trong số đó phải tính 16 nhân viên của tòa Đại Sứ. Năm người còn lại là nhà báo của AFP, của tờ Humanité và tờ l’Unita (hai tờ báo của cộng sản Pháp và Ý). Tiếng Pháp là ngôn ngữ mà những người dưới 50 tuổi không người nào biết .. Đối với những người khác thì tiếng Pháp là một sinh ngữ ngoại quốc đứng vào hàng thứ tư sau tiếng Nga, tiếng Tàu và tiếng Anh.

Từ sự hiện diện của chúng tôi khi xưa, giờ nầy trên bình diện kinh tế, chỉ còn một hồ sơ tố tụng về nợ nần không bao giờ giải quyết được và một khế ước bồi thường cho những mỏ than cũ ở Miền Bắc của chúng tôi mà Bắc Việt đã cho đình chỉ thi hành từ năm 1963 . Lãnh đạo của Hà Nội chỉ cần vài năm là quá đủ để họ bôi xóa hết dấu vết ảnh hưởng của người Pháp ở Miền Bắc Việt Nam .

Như vậy cò thể nào người ta đặt hết tin tưởng vào một hy vọng là họ sẽ tõ ra bớt mẫn tiệp hơn nếu họ chiếm được Miền Nam?