mardi 28 juin 2011

Sinh Viên Hành Khúc + Tiếng Gọi Thanh Niên + Tiếng Gọi Công Dân

6/25/2011
7:23 PM Cờ Vàng


 Sinh Viên Hành Khúc

Này sinh viên ơi! Đứng lên đáp lời sông núi!
Đồng lòng cùng đi, đi, đi mở đường khai lối,
Vì non sông nước xưa, truyền muôn năm chớ quên,
Nào anh em Bắc Nam! Cùng nhau ta kết đoàn!
Hồn thanh xuân như gương trong sáng,
Đừng tiếc máu nóng, tài xin ráng!
Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta,
Dầu muôn chông gai vững lòng chi sá,
Đường mới kíp phóng mắt nhìn xa bốn phương,
Tung cánh hồn thiếu niên ai đó can trường.

Điệp khúc:

Sinh viên ơi! Ta quyết đi đến cùng!
Sinh viên ơi! Ta thề đem hết lòng!
Tiến lên đồng tiến! Vẻ vang đời sống!
Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng!

Này sinh viên ơi! Dấu xưa vết còn chưa xoá!
Hùng cường trời Nam, ghi trên bảng vàng bia đá!
Lùa quân Chiêm nát tan, thành công Nam tiến luôn,
Bình bao phen Tống Nguyên, từng ca câu khải hoàn,
Hồ Tây tranh phong oai son phấn,
Lừng tiếng Sát Thát Trần Quốc Tuấn,
Mài kiếm cứu nước nhớ người núi Lam,
Trừ Thanh, Quang Trung giết hằng bao đám,
Nòi giống có khí phách từ xưa chớ quên,
Mong đến ngày vẻ vang, ta thắp hương nguyền.

Điệp khúc:

Sinh viên ơi! Ta quyết đi đến cùng!
Sinh viên ơi! Ta thề đem hết lòng!
Tiến lên đồng tiến! Vẻ vang đời sống!
Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng!

Này sinh viên ơi! Muốn đi đến ngày tươi sáng,
Hành trình còn xa, chúng ta phải cùng nhau gắng!
Ngày xưa ai biết đem tài cao cho núi sông,
Ngày nay ta cũng đem lòng son cho giống dòng,
Là sinh viên vun cây văn hoá,
Từ trước sẵn có nhiều hoa lá,
Đời mới kiến thiết đáp lòng những ai,
Hằng mong ta ra vững cầm tay lái,
Bền chí quyết cố gắng làm cho khắp nơi,
Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!

Điệp khúc:

Sinh viên ơi! Ta quyết đi đến cùng!
Sinh viên ơi! Ta thề đem hết lòng!
Tiến lên đồng tiến! Vẻ vang đời sống!
Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng!
 Tiếng Gọi Thanh Niên

Này thanh niên ơi! Đứng lên đáp lời sông núi,
Đồng lòng cùng đi đi đi mở đường khai lối,
Vì non sông nước xưa truyền muôn năm chớ quên,
Nào anh em Bắc Nam cùng nhau ta kết đoàn,
Hồn thanh xuân như gương trong sáng,
Đừng tiếc máu nóng tài xin ráng,
Thời khó thế khó khó làm yếu ta,
Dầu muôn chông gai vững lòng chi sá,
Đường mới kiếp phóng mắt nhìn xa bốn phương,
Tung cánh hồn thiếu niên ai đó can trường,

Điệp khúc:

Thanh niên ơi! Ta quyết đi đến cùng,
Thanh niên ơi! Ta nguyền đem hết lòng,
Tiến lên, đồng tiến, vẻ vang đời sống,
Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng.
 
Tiếng Gọi Công Dân
(Được chính thức chọn là Quốc ca VNCH)

Này Công Dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng,
Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống.
Vì tương lai Quốc Dân, cùng xông pha khói tên,
Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.
Dù cho thây phơi trên gươm giáo,
Thù nước, lấy máu đào đem báo.
Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy,
Người Công Dân luôn vững bền tâm trí.
Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi,
Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!

Công Dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!
Công Dân ơi! Mau làm cho cõi bờ,
Thoát cơn tàn phá, vẻ vang nòi giống,
Xứng danh nghìn năm dòng giống Lạc Hồng!
Lưu Hữu Phước




Hãy Sống Lại Khí Thế Bạch Đằng, Đống Đa


Bảo Vệ Độc Lập Chủ Quyền của Tổ Quốc Việt Nam

Đỗ Văn Phúc

Viết để yểm trợ cao trào dân chủ, độc lập trong nước

Mượn lời Quang Trung Đại Đế

“Đánh cho nó chích luân bất phản

Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn

Đánh cho sử tri Nam Quốc Anh Hùng chi hữu chủ "


Một nước nhỏ ở bên cạnh một nước khổng lồ thì vui ít buồn nhiều. Mối lo âu đầy ắp trong từng bữa ăn, giấc ngủ của các nhà lãnh đạo là làm sao giữ được chủ quyền, không bị bức hiếp. Nhất là cái nuớc lớn đó lại có một dân số quá đông, đói nghèo, hiếu chiến, hàng ngàn năm từng ôm ấp mộng bành trướng xâm lăng để giải toả những vấn nạn về đất đai, sinh kế của dân họ.

Việt Nam, cũng như các nước Tây Tạng, Mông Cổ, Mãn Châu, Cao Ly, Tân Cương, Thổ Phồn… là trường hợp điển hình về mối hiểm họa khi nằm kề một nước Trung Hoa mà dân số và lãnh thổ lớn gấp hàng chục lần, cũng như tính nết ngạo mạn, tư cao, hung hăng, hiếu chiến của dân tộc Hoa Hán vốn luôn tư coi mình là con trời, coi các quốc gia lân bang là man rợ.

Việt Nam đã chiến đấu kiên trì cả ngàn năm mới giành được độc lập năm 938 sau chiến thắng Bạch Đằng Giang của Tướng Quân Ngô Quyền. Rồi tiếp theo thêm gần 1000 năm phải chịu đựng nhiều cuộc chiến tranh xâm lược từ phương Bắc mà lần nào, cha ông ta cũng anh hùng chống trả và đánh bại quân thù. Nhiều nước không may đã rơi vào vòng cương tỏa của Trung Hoa như Tân Cương, Nội Mông, Tây Tạng mà ít có hy vọng phục quốc.

So về lãnh thổ, Trung Cộng rộng hơn Việt Nam gần 30 lần (9.6 triệu cây số vuông so với Việt Nam chỉ có hơn 330 ngàn). Về dân số hiện nay thì gấp hơn 16 lần (1.4 tỷ so với 86 triệu). Cho nên ỷ đông, ỷ lớn, Trung Hoa từ cổ đại vẫn luôn luôn hiếp đáp Việt Nam ta, hàng chục lần xua quân xâm lấn trong chuổi dài lịch sử mấy ngàn năm.

Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền

Dân tộc Việt Nam phát xuất từ miền Hoa Nam, phát triển xuống đồng bằng Bắc Việt, đã lập thành một quốc gia Âu Lạc có các định chế chính trị riêng biệt, có nền văn hoá đặc thù, ngôn ngữ hoàn toàn khác hẳn ngôn ngữ Trung Hoa. Dù bị Trung Hoa đô hộ cả ngàn năm, dân tộc Việt vẫn luôn quật cường, khởi nghĩa giành lại độc lập.

Năm 938 đánh dấu trang sử mới của một Đại Việt mà từ đó, các vương triều nối tiếp luôn biểu hiện tinh thần độc lập, từng oanh liệt chống trả và chiến thắng bắc xâm.

Bốn câu thơ đầy khí phách của danh tuớng Lý Thường Kiệt được xem là bản tuyên cáo độc lập của Việt Nam:

Nam Quốc sơn hà, Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khang, thủ bại hư

Trước một nước Tàu rộng lớn, trước một dân tộc đông đúc hiếu chiến, tổ tiên chúng ta đã tỏ ra bất khuất hiên ngang đứng dậy. Điều đó có được là nhờ vào tinh thần dân tộc, tính tự hào, tự tin của nòi giống Lạc Hồng. Nó chỉ có được khi có những vị quân vương đức độ, một chính sách hợp lòng dân, liên kết được sức mạnh tổng hợp, trên dưới một lòng. Đó là thời huy hoàng lịch sử dưới triều các Thánh Vương Lý Nhân Tông, Trần Nhân Tông. Đó là thời đã sản sinh ra những anh hùng cái thế Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn Huệ mà những chiến công đã lẩy lừng chấn động một góc trời Đông Á.

Vào tháng 12, 1637, Vua Lê Thần Tông cử Vinh Quân Công đi sứ sang Tàu. Vua Minh là Sùng Trinh ra câu xuất nhằm hạ nhục nuớc ta, nhắc đến cột trụ đồng do Tàu dựng lên sau khi đánh thắng Hai Bà Trưng (Đồng trụ chí kim đài dĩ lục, dịch nghĩa: Cột trụ đồng nay còn rêu xanh), Sứ giả Vinh Quân Công Giang Văn Minh đã hiên ngang nhắc lại hai lần chiến công Bạch Đằng qua câu đối:

Đằng Giang tự cổ huyết do hồng

(Nghĩa: Sông Bạch Đằng đến nay còn loang máu (quân Tàu))

Chủ quyền quốc gia, tình thần dân tộc của Việt Nam lại lần nữa được người anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ nhắc đến trong một câu đầy khí phách:

“Đánh cho sử tri Nam Quốc Anh Hùng chi hữu chủ"

Trung Hoa Lớn, Nhưng Chưa Hẳn Đã Mạnh.

Người ta có thể nói một cách khôi hài rằng, cái khối 1 tỷ rưởi dân Tàu mà tràn xuống thì 80 triệu dân Việt cũng chết vì ngộp thở. Nhưng xét về nhiều khía cạnh, liệu con số khổng lồ đó có đủ sức mạnh thống nhất không hay chỉ là một vỏ bọc của những mâu thuẫn, xung đột mà có thể tan vỡ bất cứ lúc nào khi có những tác nhân đúng lúc.

Các quốc gia đang đối phó với những nguy cơ tan vỡ trong nội bộ thường tạo ra kẻ thù bên ngoài để khích động tinh thần quốc gia cực đoan, đánh lạc hướng đấu tranh của dân chúng.

Trung Cộng, từ sau biến cố Thiên An Môn, đã thấy cao trào đấu tranh dân chủ như một đe dọa cho sự thống trị của đảng Cộng Sản. Rồi tiếp theo, các cuộc nổi loạn triền miên ở Tân Cương, Tây Tạng. Trung Cộng một mặt ra sức phát triển công nghiệp quốc phòng, xây dựng quân đội hiện đại và tìm cách lấn xuống vùng biển Đông. Thấy một nước Việt Nam nhỏ bé, lạc hậu, đói nghèo với một nhà cầm quyền ươn hèn, bất tài chỉ biết tham ô; Trung Cộng đã liên tiếp xâm lấn, chiếm đất biên giới, chiếm hải đảo, xâm lăng kinh tế qua những chương trình đầu tư, khai thác, xuất cảng nhân công. Nhưng chúng chỉ dám lên mặt với học trò Việt Cộng thôi. Những lần lên gân cốt đe dọa Đài Loan đã đem lại những phản ứng rất mạnh làm chúng chùn bước. Năm ngoài, thấy Hoa Kỳ bận lo các chiến trường Iraq, Afghanistan, một viên tướng Tàu còn thử nắn gân cốt Mỹ qua những đe dọa quân sự. Nhưng cả thế giới đều thấy rõ tiềm lực của Trung Cộng chưa bén đến gót chân Hoa Kỳ nếu so về trang bị kỹ thuật tân tiến lẫn hoả lực. Mới mua và tân trang một hàng không mẫu hạm cũ rách của Nga, chúng đã mang ảo tưởng về sức mạnh của mình để tiến ra Biển Đông.

Trong tác phẩm “China, Fragile Superpower” xuất bản năm 2007, Tiến Sĩ Susan Shirk đã phân tích đầy đủ nội tình của Trung Cộng để chứng minh rằng Trung Cộng chỉ là một “siêu cường mong manh” chứ chưa hẳn có thực lực. Thứ siêu cường này chỉ để tháu cáy các quốc gia yếu bóng vía mà thôi.

Tưởng cũng nhắc sơ qua chút lịch sử để chúng ta có thể phần nào an tâm về đám khổng lồ chân đất sét này.

Tính từ nhà Tần thống nhất năm 221 B.C. đến Cách Mạng Tân Hợi (1911) , nước Tàu cũng trải qua nhiều biến loạn, phân rẽ rối thống nhất nhiều lần do sự khác biệt về chủng tộc, văn hoá và các tham vọng, mưu đồ. Một nước nhỏ bị nước lớn chiếm đoạt thống trị là lẽ thường. Nhưng trái lại, nuớc Tàu “vĩ đại” kia từng hai lần bị “bọn rợ” Mông Cổ thống trị trong 162 năm (1368-1206), và “rợ” Mãn Châu cai trị trong 296 năm (1616-1912) mà nếu không có liệt cường rồi Nhật Bản nhảy vào xâu xé, thì chưa biết còn bị thắt bím tóc (phong tục Mãn Châu) cho đến bao giờ.

Xin nhắc sơ:
Tháng 12 năm 1937, chỉ vài ngàn quân Nhật tiến đánh Nam Kinh, nơi có khoảng 150 ngàn quân Tàu phòng thủ (Nanking, Anatomy of an Atrocity, Masahiro Yamamoto, trang 47). Không dám chống lại, quân Tàu đầu hàng và bị quân Nhật tập trung lại, kêu từng hàng ngang tiến lên để cho lính Nhật thực tập chặt đầu, đâm lưỡi lê, xô xuống giao thông hào cho xe tăng cán qua. Cả trăm ngàn lính Tàu hèn nhát như những con thỏ, đứng chờ đến lượt mình mà không có một phản ứng. Tổng cộng có khoảng 100 ngàn lính Tàu bị chết, trong đó có 52 ngàn bị xử lính Nhật đem ra xử tập thể (sđd, trang 88 và 110). Nếu tính luôn số thường dân thì con số bị giết lên đến 160 ngàn người (trang 193)

Lạm bàn một chút về kinh tế, thì tuy bên ngoài thấy sự phát triển tưởng có thể cạnh tranh với Hoa Kỳ, Nhật Bản, tưởng có thể ngoi lên hàng đầu thế giới. Nhưng nếu so về GDP per capita, (Trung Cộng US$ 7518, so với Hoa Kỳ US$47,275) thì vẫn còn ở mức dưới trung bình so với các nước trên thế giới (lẹt đẹt ở thứ hạng 94 trên tổng số 183 nước, theo thống kê của IMF). Điều này chứng tỏ sự phát triển của Trung Cộng thiếu nền móng, không đồng bộ, và chỉ là mặt nổi ở các đô thị mang tính chất phô trương mà thôi.

Cho hay, Trung Cộng không thưc mạnh mà chỉ hung hăng, ăn hiếp người yếu thế. Còn nếu đụng phải đối thủ, thì họ cũng chỉ là những con thỏ đế mà thôi.

Trước Hiểm Họa Trung Cộng, Chúng ta Làm Gì?

Dĩ nhiên, Việt Nam ngày nay dưới chế độ Cộng Sản đã quá nhu nhược về chính trị, lạc hậu về kinh tế, yếu kém về quốc phòng. Cho nên Trung Cộng mới được đà lấn áp.

Sau rất nhiều năm mà dân chúng, đặc biệt tầng lớp thanh niên đã ngủ mê trong cơn ma túy Cộng Sản, và yếu nhát trước bạo lực đàn áp của nhà cầm quyền; ngày nay họ đang vùng lên, ý thức hiểm họa mất nước. Những cuộc biểu tình xảy ra gần đây đã cho thấy một khí thế sôi sục xuất phát từ lòng ái quốc vốn tiềm tàng trong tâm thức mỗi người dân Việt. Người Việt Nam, nhờ sống sát nách Trung Hoa, đã trở nên thiện chiến. Nếu được sống trong một chế độ tốt đẹp, lòng ái quốc sẽ càng được hun đúc thêm và càng dũng mãnh mà không một sức mạnh nào có thể khuất phục.

Tuy thế, chúng ta không sợ cuộc chiến quân sự. Vì thế giới ngày nay sẽ không để cho Trung Cộng mặc tình thao túng. Cuốn sách mới đây “Death by China” của Peter Navarro, đã cảnh tỉnh nhân loại yêu hoà bình về một Trung Cộng đang đầu độc thế giới, thực hiện mưu đồ thống trị kinh tế mà từ lâu đã xâm nhập vào lục địa châu Phi, các nước Ả Rập, và đang gây tranh chấp ở vùng Thái Bình Dương.

Khi Trung Cộng hung hăng diễn tập ở Biển Đông, Hoa Kỳ đã phản ứng với cuộc diễn tập với các quốc gia trong vùng, song song với những tuyên bố mạnh bạo, răn đe của Ngoại Trường Hillary Clinton. Ngoài Việt Nam, còn nhiều quốc gia Đông Nam Á cũng luôn ý thức sự đe dọa của Trung Cộng nữa. Chắc chắn họ không ngồi chờ đến phiên mình làm con cừu dâng thịt cho con sói Trung Cộng

Vấn đề là liệu nhà cầm quyền Cộng Sản Hà Nội có chọn lựa giữa mất nước và mất quyền thống trị đảng hay không .

Một khi còn chế độ và chính sách Cộng Sản, thì không bao giờ tập hợp được một khí thế Diên Hồng để đoàn kết chống xâm lăng. Máu xương chỉ dâng hiến cho Tổ Quốc chứ không hy sinh để bảo vệ tập đoàn thống trị gian ác.

Người trong nước đang vùng lên. Người Việt hải ngoại phải tiếp sức, biểu lộ sự đồng tình ủng hộ thúc đẩy một lúc hai cao trào chống bạo quyền và chống xâm lăng.

Máu sẽ đổ, nhiều người sẽ hy sinh; đất nước sẽ lâm vào binh đao khói lửa, có thể sẽ bị Trung Cộng tạm thời xâm chiếm.

Nhưng giữa sự hy sinh và và nền độc lập tự do của tổ quốc, dân Việt chúng ta chọn điều nào?

Austin 19 tháng 6, 2011

Đỗ Văn Phúc. 

 %%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%


Tiên sư cái lũ Hán tham
Bay đừng có tưởng nước Nam sợ mày
Từ xưa dân của choa đây
Trẻ già trai gái dựng xây nước nhà.

Mỗi khi cần phải xông pha
Dân choa quyết chí không tha thằng nào.
Hoàng, Trường Sa của chúng tao
Quyết tâm bảo vệ chẳng nao núng lòng.

Dân choa gan dạ anh hùng
Năm châu bốn biển đã từng xuýt xoa.
Trí-mưu-đức-dũng những là
Luôn luôn ở thế bậc cha chúng mày.

Tiên sư cái lũ mặt dày
Quanh đi quẩn lại cắt dây nhà bà
Bay đừng cậy thế chua ngoa
To mồm lớn tiếng mà qua dở trò.

Tiền sư cái lũ Tàu ô
Tham lam vỗn dĩ là đồ bất lương
Xưa kia tràn xuống biên cương
Nướng bao nhiêu phận dân thường nơi đây.

Máu xương đổ xuống đất này
Ươm mầm dũng khí mỗi ngày thêm xanh
Nếu bay còn muốn tung hoành
Thì choa lại quyết đồng thanh diệt thù.

Tiên sư cái lũ Tàu phù
Lòng lang dạ sói bay ngu suốt đời
Đừng hòng đi cướp của người
Lấn giang sơn, lấn biển trời nước Nam.

Láng giềng chi với sài lang
Miệng thì hảo hảo, bụng đầy thép gang
Dân choa hiếu nghĩa đường hoàng
Bay là lũ chó cắn quàng cắn xiên.

Tổ cha cái lũ Tàu điên
Sao bay lại cứ làm phiền dân choa.
Hãy mau cút xéo về nhà
Để còn đẹp mặt mẹ cha chúng mày./.

(TG: Hà Bắc) 
Ngày 11 tháng 6 năm 2011 

"CŨNG BỞI THẰNG DÂN..."

Đây là bài đầu tiên tôi viết trong diễn đàn này. Khỏi mất thời gian của quý vị, xin nói mấy lời chân tình. Quý vị có biết vụ tẩy trứng gà Tàu thành trứng gà ta không? Quý vị có suy nghĩ như thế nào? Nếu hỏi quý vị một câu rằng nếu quý vị là một người dân thuộc làng Đông Ngàn, quý vị có tham gia vào cái việc tẩy trứng rồi đem đầu độc lại đồng bào của các vị không, thì chắc 100% quý vị ở đây trả lời là không Nhưng kỳ thực là quý vị đang làm những việc tệ hại hơn nhiều so với việc ấy. 

Quý vị có bao giờ thấy người dân các nước "tư bản thối nát" "theo đuôi Mỹ" như châu Âu, Nhật, hàn Quốc người ta làm những cái trò đồi bại như tẩy trứng bằng axit, trộn melamin vào sữa, bơm hoá chất vào rau quả, quết mật ong giả vào chân gà thối.... để đem đầu độc chính giòng giống của họ không? Tuyệt nhiên là không. Những vị nào đọc đến đây mà bảo tôi là "rân chủ", "ăn phải bả của tư bản", thì mời quý vị khỏi đọc nữa, đỡ mất thời gian của quý vị. Quý vị có bao giờ nói hàng Mỹ, châu Âu, Nhật, Hàn, Thái là rởm, là đểu, là lừa đảo, là chạy theo đồng tiền... không?

Hay là quý vị lùng sục mua bằng được những món đồ sản xuất ở những nước "tư bản thối nát" ấy với giá đắt gấp đôi gấp ba so với hàng của Trung Quốc? Quý vị có thể không tẩm chất độc vào trứng, vào rau như những người nông dân kém hiểu biết, nhưng quý vị lại tẩm chất độc vào đầu óc của những con người xung quanh quý vị bằng những lời dối trá, hối lộ, chạy chọt để được vinh thân phì gia. 

Dần dần, mọi người trong xã hội đều chạy theo quý vị với một suy nghĩ cực kỳ lệch lạc rằng "mình không làm ắt sẽ có người khác làm". Kinh tế quyết định chính trị, nhưng chính trị lại có tác động ngược trở lại kinh tế. Một xã hội mà ai cũng chỉ biết lo cho bản thân mình như xã hội Việt Nam, xã hội Trung Quốc thì có đáng được gọi là "xã hội chủ nghĩa" không? Các vị có hiểu thế nào gọi là "xã hội chủ nghĩa" và "tư bản chủ nghĩa" không? Các vị hiểu "XHCN" tức là có đảng cộng sản lãnh đạo còn "TBCN" là có nhiều đảng thay nhau lãnh đạo, hoặc là "nhiều đảng tư sản thay nhau lãnh đạo" phải không? 

Sai lầm Xã hội chủ nghĩa là đặt xã hội lên đầu, đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân, nó đối lập với tư bản chủ nghĩa nơi mà "tư bản" được đặt lên đầu, mà tư bản chính là "tiền nằm trong lưu thông", hay nói tóm lại "tư bản" là lợi ích cá nhân. Theo Hán Việt "tư bản" nghĩa là "vốn". Một xã hội như Mỹ, Nhật là nơi mà con người luôn sống vì lợi ích riêng, nhưng không chà đạp lên lợi ích chung. Người Nhật không bao giờ tẩm thuốc kích thích vào rau quả vì họ biết làm như thế sẽ gây hại cho những người đồng bào của họ, họ cũng không xuất khẩu những đồ kém chất lượng vì nó sẽ gây hại đến những đồng loại của họ, dù là người nước ngoài. 

Người Nhật có thể tự sát, kết thúc sinh mệnh của mình, để bảo toàn danh dự cho gia đình, cho dòng tộc của họ. Một xã hội như Việt Nam, trung Quốc là nơi con người miệng thì nói rằng "vì lợi ích tập thể", "xã hội chủ nghĩa", nhưng tay và chân thì chà đạp giày xéo lên người khác. Hãy nhìn thử một vụ tắc đường ở Việt Nam và một vụ tắc đường ở Thái Lan thì biết. Vậy ở đâu mới xứng đáng là xã hội chủ nghĩa?

Đó là một điều mà tôi muốn nói với quý vị Các vị nói rằng ngày xưa dù nghèo khổ nhưng Việt Nam vẫn kiên cường chống lại hai đế quốc to. Điều này là đúng và theo một nghĩa nào đó, thì đáng tự hào Nhưng các vị lại nói ngày nay để được hoà bình, hay nói toẹt ra là để các vị được yên ổn làm ăn, yên ổn kiếm tiền, thì Việt Nam cần mềm dẻo với trung quốc, cho dù trên thực tế và trên tuyên bố, Trung Quốc đã và đang chiếm nhiều đất của chúng ta. 

Vậy theo cái lý ngày xưa của quý vị thì đáng ra Việt Nam phải vùng lên đánh lại Trung Quốc, hoặc theo cái lý ngày nay của quý vị thì đáng ra ngày xưa Việt Nam không nên đánh lại Pháp và Mỹ mới phải. Nhưng sự thực thì quý vị luôn tự hào về ngày xưa và đớn hèn về ngày nay. Chẳng có cái lý nào ngoài cái lý tiền. Các vị sợ đánh nhau với trung quốc thì con cái các vị phải ra trận, hoặc ít ra thì khi có chiến tranh, việc làm ăn kiếm tiền của các vị sẽ khó khăn hơn. Tóm lại các vị chỉ biết có bản thân mình, các vị cá nhân chủ nghĩa ở trình độ cao cấp. Đó là cái thứ hai tôi muốn nói với các vị. 

Các vị khi thì hô hào "Việt Nam là bạn với thế giới" , khi thì hô hào "Việt Nam phải cảnh giác với Mỹ, Âu, Tàu, Nhật". Như thế là cái lý gì? Vì cái tư tưởng lúc nào cũng thù với hận của các vị, nên các vị không bao giờ thật lòng giao hảo với bất cứ ai. Các vị bắt tay người nước ngoài khi họ đến mang theo đô la và các vật dụng đắt tiền cho các vị hưởng, nhưng các vị lại vênh mồm lên chửi khi họ chỉ ra những cái sai lầm của quý vị. Quý vị biện luận rằng trong quan hệ quốc tế thằng nào cũng chỉ lợi dụng lẫn nhau thôi. Vậy thì người ta sẽ nghĩ về quý vị đúng như thế.

Thuỵ Điển, na uy hàng năm cho không Việt Nam hàng triệu đô la và nhiều chương trình đào tạo phát triển, họ lợi dụng gì quý vị? Hay là quý vị nghĩ rằng họ chẳng qua muốn lấy lòng quý vị nên mới thế? Vậy nghĩ xem quý vị đã là cái thá gì mà người ta phải lấy lòng? Quý vị thử chìa tay ra cho một người, rồi biết được người ấy lúc nào cũng nhăm nhăm "cảnh giác cao độ" với cái chìa tay của quý vị, thì quý vị sẽ nghĩ gì về người đó? Đầu óc quý vị quá đen tối và nói thẳng ra quý vị cũng suốt ngày tìm cách lợi dụng người khác nên mới nghĩ cho người khác đen tối như thế. 

Vì thế nên Việt Nam ta mới tụt hậu so với nước ngoài như hôm nay. Những quốc gia như Nhật, Hàn, Thái Lan vốn có điểm xuất phát không hơn ta là mấy nhưng nay họ đã vượt ta nhiều, đó là vì sao? Vì họ có tầm nhìn hơn chúng ta. Vì họ hiểu được một lý thuyết cơ bản nhất của thương mại đó là cả hai bên cùng có lợi, họ không bao giờ bắt tay với người khác mà trong bụng thì cứ nơm nớp lo người ta "lợi dụng" mình. Suy nghĩ kiểu như thế chỉ tồn tại trong những bộ óc chưa tiến hoá hết từ vượn sang người. 

Nói thẳng ra, các vị là những kẻ hám tiền, lo cho lợi ích của cá nhân và cùng lắm là gia đình mình, là hết. Các vị ưa xiểm nịnh, khi báo Washington Post đưa tin rằng nền KT việt nam đang cất cánh thì quý vị tung hô tờ báo ấy như là chuẩn mực của sự trung thực, còn khi cũng báo Washington Post đưa tin về tham nhũng của Việt Nam thì các vị nói họ đưa tin không chính xác. Cái thái độ lá mặt lá trái ấy cũng đúng trong trường hợp người ta nói về "kẻ thù" của quý vị, ví như việc Ân Xá Quốc Tế lên án Mỹ vi phạm nhân quyền và cũng lên án Việt Nam với tội danh tương tự. Đây là điều thứ ba tôi muốn nói với quý vị.

Điều thứ tư nghe sẽ hơi sốc: nói thẳng ra là quý vị cực ngu Quý vị không tin vào các thông tin "lề trái", tức là những thông tin trái ngược với báo chí chính thống và những tuyên bố chính thức của Việt Nam. Nhưng bản thân quý vị đang sinh hoạt ở một diễn đàn có tên miền quốc tế, đã hoạt động được hơn 2 năm nhưng ngân khoản duy trì sự tồn tại của nó vẫn là từ tiền của cá nhân những con người đáng trân trọng đã lập ra website này. Tại sao website này không thể có đuôi .vn và cũng không thể đăng quảng cáo được, quý vị nếu đủ thông minh thì đã nghĩ ra từ lâu rồi. Quý vị quy kết tất cả những lời nói, bài viết của người khác là "phản động" "chống lại Việt Nam", "bán rẻ tổ quốc" chỉ vì những người ấy không có tư tưởng giống như quý vị. 

Quý vị bỏ ngoài tai mọi lời phân tích không theo ý kiến của quý vị, quý vị biến một diễn đàn trao đổi tri thức thành một cái chợ để cãi nhau và sỉ vả nhau bằng những từ như "thằng ", "con lợn", một cách tự nhiên không biết ngượng mồm. Nếu vậy quý vị mất thời gian lên diễn đàn làm gì? Sao không trùm chăn lại tự nói cho xong? Quý vị gọi người khác là "chống lại đất nước" bởi vì họ chống lại suy nghĩ của quý vị, như thế khác gì quý vị tự coi mình là đại diện của nước Việt Nam? Quý vị tự cho mình là người phát ngôn của chính phủ Việt Nam, hay ngắn gọn, quý vị chính là Việt Nam? Quý vị kêu gọi người ta "cảnh giác với những âm mưu gây chia rẽ", nhưng lại không nhận ra rằng chính cái lời kêu gọi ấy của quý vị là một âm mưu gây chia rẽ.

Nếu quý vị muốn sống tốt với hàng xóm của mình, ắt quý vị không bao giờ bắc loa giữa phố mà rằng "hãy cảnh giác với thằng A, con B, hàng xóm của tôi, chúng nó đang âm mưu chia rẽ". Quý vị ngu lắm. Muốn đất nước phát triển được, hãy thôi mò mẫm và ảo tưởng trong cái thế giới độc tôn của quý vị, hãy tỉnh táo trước những khẩu hiệu, hãy đi vào bản chất thay vì hô hào bên ngoài, hãy lắng nghe xem người khác nói thế nào, và hãy chân thật trong mọi mối quan hệ. Nhưng tôi không vọng tưởng rằng một ngày nào đó quý vị sẽ thay đổi. 

Quý vị sẽ mãi mãi là người dân của một đất nước tụt hậu, tham nhũng, ô nhiễm và không được bạn bè quốc tế coi trọng. Đên đây chợt nhớ câu nói của cụ Tản Đà: "Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn..." Gửi một số quý vị trong diễn đàn, ai đọc thấy không phải mình thì tức là không phải đối tượng mà tôi nói đến.

Thành viên Shinra DIỄN ĐÀN HOÀNG SA http://hoangsa.org/forum/showthread.php?t=15617&s=df66efd8833048b62fcf3a81a41df8c0

vendredi 24 juin 2011

Những Nhà “Lão Thành Cách Mạng” hay “Thủ Phạm Của Mọi Tội Ác”

Đất nước ta còn tồn tại hay sẽ trở thành một quận huyện
của Trung Quốc? Câu hỏi đặt ra buộc chính chúng ta phải trả
lời chứ không phải một ai khác. Trung Quốc thì đang bành
trướng mộng bá quyền còn Đảng Cộng Sản Việt Nam đã lộ
nguyên hình là một đảng cướp và những người cầm đầu
chế độ tại Hà Nội thì chỉ biết hống hách với người
dân trong nước nhưng lại vô cùng hèn nhát khiếp nhược
trước ngoại bang.

Thật ra không đợi đến ngày hôm nay mà chỉ một vài năm sau

biến cố 1975, trên các luồng thông tin người ta đã thấy phơi
bầy mỗi ngày một rõ ràng những nghịch lý, những tội ác,
những bất công, những thủ đoạn tàn độc, những trò xảo
trá lường gạt bỉ ổi của cái gọi là Nhà Nước Xã Hội
Chủ Nghĩa. Trước đây người ta đổ lỗi cho chiến tranh
vì không thể bao biện và kiểm soát nổi nhưng bây giờ hòa
bình đã gần bốn chục năm rồi thì đổ lỗi cho ai đây?

Chưa nói tới những tuyên cáo, những bài viết của những

người không chấp nhận chế độ và của những tổ chức hay
đảng phái chống đối, vì có thể bị gán ghép là bôi nhọ
hay suy diễn một chiều. Ở đây, trong một phạm vi ngắn gọn,
chúng ta chỉ cần lướt qua tư duy của chính những người
trong cuộc. Những người này cứ tạm gọi là những nhà
"lão thành cách mạng" vì họ đã "phục vụ cách mạng" 

gần hết cuộc đời. Họ thuộc lớp người tiên khởi nồng cốt của chế độ, là công thần của chế độ, và nhất là đã hoặc đang nắm giữ những chức vụ đầu não quan trọng, cho nên họ biết rất rõ mặt thật và
việc làm của chế độ. Họ đã nói và viết những gì?

Nguyễn Hộ người có 55 tuổi đảng, Chủ Tịch Đoàn Chủ

Tịch Mặt Trận Tổ Quốc Trung Ương, thủ lãnh của Nhóm
Truyền Thống Kháng Chiến, viết trong tập hồi ký Quan Điểm
Và Cuộc Sống: "Ngày 21/3/1990 tôi rời khỏi Saigòn cũng là
ngày tôi rời khỏi Đảng CSVN. Tôi làm cách mạng đã 56 năm,
gia đình tôi có 2 liệt sĩ, Nguyễn Văn Đào, anh ruột, Đại Tá
QĐNDVN, hy sinh ngày 9/1/1966 tại Củ Chi, và vợ tôi Trần Thị
Thiệt bị bắt và chết tại Tổng Nha Cảnh Sát Sài gòn vào
tết Mậu Thân 1968, nhưng phải thú nhận rằng tôi đã chọn sai
lý tưởng: Cộng Sản Chủ Nghĩa. Bởi vì suốt hơn 60 năm trên
con đường cách mạng ấy nhân dân Việt Nam đã chịu hy sinh
quá lớn lao, nhưng cuối cùng chẵng được gì, đất nước
vẫn nghèo nàn lạc hậu, nhân dân không có ấm no hạnh phúc,
không có dân chủ tự do. Đó là điều sĩ nhục (nguồn:
Wikipedia)".

Ông Nguyễn Minh Cần, nguyên Phó Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân

Thành Phố Hà Nội, nguyên Đại Sứ Cộng Sản Hà Nội tại
Liên Sô, ghi lại tính tàn độc và lưu manh của Đảng Cộng
Sản trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất 1953-1956: "Giết oan
hàng trăm ngàn người, đầy ải hàng triệu người, làm cho
đạo lý suy đồi luân thường đảo ngược. Tại cuộc mít tinh
tối 29.10.1956, ông Võ Nguyên Giáp chỉ cho biết con số 12 nghìn
cán bộ và đảng viên đã được trả tự do mà thôi! Con số
đó đúng hay không, ai mà biết được! Tóm lại, những con số
về người bị thiệt mạng trong CCRĐ vẫn chưa xác định
được. Dù thế nào chăng nữa, với những con số ước tính
đã cho thấy đây là một tội ác tày trời. Tội ác này chính
là tội ác chống nhân loại" (Nguyễn Minh Cần, Xin Đừng
Quên Bài Học Cải Cách Ruộng Đất Nửa Thế Kỷ Trước)

Trung Tướng Trần Độ, Cựu Phó Chủ Tịch Quốc Hội, viết:

"Cuộc cách mạng ở Việt Nam đã đập tan và xoá bỏ
được một chính quyền thực dân phong kiến, một xã hội nô
lệ, mất nước, đói nghèo, nhục nhã. Nhưng lại xây dựng nên
một xã hội nhiều bất công, nhiều tệ nạn, một chính quyền
phản dân chủ, chuyên chế, một chế độ độc đảng và toàn
trị, nhiều thói xấu giống như và tệ hơn là trong chế độ
cũ…" Và trong một lần nói chuyện, khi được hỏi về
chế độ lao tù, ông nói "Nếu nhà tù Pháp thời xưa mà
giống nhà tù cộng sản bây giờ thì chúng tôi chết lâu rồi,
làm gì còn có người vượt ngục." Cuối cùng, để biện
minh cho những đóng góp của mình vào chế độ, ông Trần Độ
làm bốn câu thơ:

Những mơ xoá ác ở trên đời,

Ta phó thân ta với đất trời
Ác xoá đi, thay bằng cực thiện
Tháng ngày biến hoá, ác luân hồi.
(Nguồn: Trần Độ- Nhật Ký Rồng Rắn)

Ông Hoàng Minh Chính gia nhập đảng từ năm 1939, Phó Viện

Trưởng Trường Nguyễn Ái Quốc kiêm Viện Trưởng Viện Triết
học Mác-Lênin trong một bài phát biểu đã than thở rằng
"Người dân dưới chế độ cộng sản đã bị áp bức
tệ hại hơn cả thời còn mồ ma thực dân đế quốc. Ngay cả
thời kỳ nô lệ, người dân ai muốn ra báo cũng chỉ cần nộp
một giấy xin phép và bản lưu chiểu. Điển hình là cụ Huỳnh
Thúc Kháng bị thực dân Pháp xử 13 năm tù về tội chống Pháp
và bị đầy ra Côn Đảo từ năm 1908 đến năm 1921 mới được
trả tự do. Khi mãn hạn tù cụ được thả về Huế, tại
đây, cụ đắc cử dân biểu năm 1926, rồi được cử làm
Viện trưởng Viện Dân Biểu Trung Kỳ và đứng ra xuất bản
tờ báo Tiếng Dân. Một người bị tù vì tội chống thực
dân còn được thực dân cho ra báo trong khi đó một người
từng nắm giữ chức Phó Chủ Tịch Quốc Hội của chế độ
mà xin phép ra một tờ báo cũng không được." (nguồn:
Wikipedia)

Cũng nên biết rằng năm 1946 cụ Huỳnh Thúc Kháng đã giữ

chức Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ trong Nội Các Chính Phủ Liên
Hiệp và giữ chức Quyền Chủ Tịch Nước trong khi Hồ Chí
Minh đi Pháp tham dự Hội Nghị Fontainebleau. Như vậy

không thể
gán ghép cụ Huỳnh là Việt Gian hay nói cụ Huỳnh vì thỏa
hiệp với Pháp nên đã được Pháp cho ra báo

Ông Trần Lâm sinh năm 1925 vào đảng năm 1947, Vụ phó Ủy Ban

Kế Hoạch Nhà nước, thẩm phán Tòa Án Nhân Dân Tối Cao, đã
viết trong bài "Những dòng suy nghĩ từ Đại hội đến Quốc
hội" số tháng 9/2007: "Đảng thì luôn nói Quốc hội là
của dân, do dân, vì dân. Người hiểu biết trong dân thì coi
Quốc hội là bù nhìn. Đảng và Nhà nước tổ chức bầu cử,
biết đây là kiểu dàn dựng, nhưng cứ làm."

Ông Trần Quốc Thuận, Phó chủ nhiệm văn phòng Quốc Hội CSVN, trả lời phỏng vấn của báo Thanh Niên: "Cơ chế hiện nay

tạo kẽ hở cho tham nhũng vơ vét tiền của của nhà nước...
Nhưng cái mà chúng ta mất lớn nhất lại không phải là tiền
dù số tiền bị mất lên đến hằng trăm tỷ, mà cái lớn
nhất bị mất là đạo đức. Chúng ta hiện sống trong một xã
hội mà chúng ta phải nói dối với nhau để sống. Nói dối
hằng ngày trở thành thói quen, rồi thói quen đó lặp lại
nhiều lần thành đạo đức, mà cái đạo đức đó rất mất
đạo đức".

Nguyễn Khải, nhà văn mang quân hàm Đại Tá, Đại Biểu Quốc

Hội, Phó Tổng Thư Ký Hội Nhà Văn CS, đã viết trong "Đi Tìm
Cái Tôi Đã Mất": "Ngôn từ là mặt yếu nhất trong các
lãnh vực thượng tầng cấu trúc tại các nước xã hội chủ
nghĩa, vì lãnh đạo các nước đó dùng ngôn từ để che
đậy... Người cộng sản nói dối lem lém, nói dối lì lợm,
nói dối không hề biết xấu hổ và không hề run sợ . Người
dân vì muốn sống còn cũng đành phải dối trá theo".

Ông Nguyễn Văn Trấn, con hùm xám Chợ Đệm Mỹ Tho, Phụ Tá Bí Thư Đảng Ủy Nam Bộ (1944), Chỉ Huy Trưởng Kiêm Bí Thư Quân Ủy Quân Khu 9 (1947), Chủ Nhiệm Văn Phòng Phó Thủ Tướng, Chủ Nhiệm Ủy Ban Kế Hoạch Thống Nhất Toàn Quốc (1962-1974).

Thì nói huỵch tẹt theo lối nói Miền Nam: "Tội ác của
chế độ này, từ 40 năm nay, thật nói không hết." (Viết
Cho Mẹ và Quốc Hội trang 345, nhà xuất bản Văn Nghệ, 1995)

Ông Nguyễn Văn An, cựu ủy viên Bộ Chính Trị Cộng Sản Việt

Nam, trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương Ðảng và là chủ tịch
Quốc Hội từ 2001 đến 2006, có lúc đã hy vọng lên làm Tổng
Bí Thư, trong một bài phỏng vấn mới xuất hiện trên mạng
lưới Tuần Việt Nam xuất bản trong nước đã nói "Đảng đã

mắc phải lỗi hệ thống và đã sai lầm ngay từ nền tảng".

Ông giải thích: "Lỗi hệ thống là lỗi từ gốc đến ngọn,

từ lý thuyết đến mô hình."

(Nguồn: NgườiViệt Online)

Và còn rất nhiều, rất nhiều nữa những trăn trở phản tỉnh

của các ông Lê Hồng Hà Cục Trưởng Cục An Ninh Bộ Công An,
Lê Liêm Cục Nội Chính, Nguyễn Trung Thành Cục Trưởng Cục
Bảo Vệ Đảng, Nguyễn Văn Hiếu Ủy Viên Thường Trực Mặt
Trận Tổ Quốc, Thiếu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh nguyên Đại
Sứ Hà Nội tại Trung Cộng, Đại Tá Bùi Tín Phó Tổng Biên
Tâp tờ Nhân Dân, Đại Tá Phạm Quế Dương Viện Quân Sử Hà
Nội, Trung Tá Trần Anh Kim người anh hùng chống cuộc xâm lăng
từ phương Bắc năm 1979, Sứ Thần Dương Danh Dy, đại diện Hà
Nội tại Trung Quốc, và các ông Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Trần
Vàng Sao cùng những tuổi trẻ được sinh ra và trưởng thành
trong chế độ như Luật Sư Lê Thị Công Nhân, Lê Công Định,
Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Vũ Bình, Nguyễn Tiến Trung, Phạm Thanh
Nghiên, Phạm Hồng Sơn, Trần Huỳnh Duy Thức,

Trần Khải Thanh
Thủy, Cù Huy Hà Vũ, Điếu Cày, Mẹ Nấm, Người Buôn Gió…
Nhiều lắm, nhiều lắm, biết kể sao cho hết.

Đứng trước sự phẫn nộ của người dân và một số người

ý thức trong đảng, Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh trong một lần
nói chuyện tại Hội Các Nhà Văn đành phải hô hào cởi trói
cho văn nghệ (có nghĩa là Đảng coi giới văn nghệ sĩ như loài
cầm thú) và cựu Thủ Tướng Võ Văn Kiệt thì hô hào:
"Đổi mới hay là chết". Mà đổi mới là gì? Là
cóp nhặt và làm theo những gì Miền Nam đã làm từ mấy chục
năm về trước. Cũng chính nhờ biết "đổi mới" nên
người dân Việt Nam mới có gạo ăn, thay vì cho mãi đến
những năm 1989-1990, suốt mấy chục năm trong thời bao cấp,
ngoại trừ đảng viên cán bộ và công an là được ăn cơm,
còn tuyệt đại đa số nhân dân phải ăn bo bo là loại đồ ăn
dành cho bò cho ngựa, và mỗi chén cơm có tới hai phần là ngô
khoai sắn độn.

Thế là sau cuộc cách mạng long trời lở đất với hơn ba

chục năm khói lửa, máu chảy thành sông, xương cao hơn núi,
Cộng Sản Hà Nội lại phải đi theo những gì trước đây họ
từng hô hào phá bỏ tiêu diệt. Từ ba dòng thác cách mạng
chuyên chính vô sản, hy sinh hơn bốn triệu mạng người, đi
lòng dòng gần nửa thế kỷ, Cộng Sản Hà Nội lại phải rập
khuôn theo mô hình của Miền Nam. Theo bản công bố của Bộ Lao
Động Thương Binh Xã Hội phổ biến ngày 14-12-1998 trên đài Hà
Nội thì phía Cộng Sản Bắc Việt đã chết trên 3 triệu
người. Quảng Nam, Quảng Bình bị thiệt hại nặng nhất, trung
bình mỗi gia đình một người. Miền Nam có 300,000 quân nhân
tử trận. Theo ông Nguyễn Hộ trong Quan Điểm và Cuộc Sống
thì cả hai miền Nam Bắc đã chết trên 11 triệu người. Cái
giá phải trả quá đắt!

Đúng nghĩa, cách mạng không phải là đập phá mà là để

kiến tạo những gì tốt đẹp hơn. Người ta đã lợi dụng hai
chữ "cách mạng" để lừa gạt lòng yêu nước của toàn
dân cho mưu đồ quyền lợi phe đảng. Nhìn lại, cuộc cách
mạng mà quý vị đã góp phần qua cuộc chiến 30 năm cộng với
xương máu của hơn 4 triệu người đã đưa đất nước chúng
ta về đâu:

- Độc lập ư? Lảnh thổ và lảnh hải của đất nước ta,

ải Nam Quan, thác Bản Giốc, quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, nay
đã bị mất về tay người "đồng chí" Trung Quốc. Hình
thức cho thuê rừng hay cho thuê đất thực chất chỉ là cắt
đất và dâng đất. Tàu Trung Quốc ngang nhiên vào hải phận
nước ta đâm chìm tàu thuyền của ngư dân thì khúm núm gọi
là tàu lạ. Sinh viên học sinh biểu tình phản đối, dù chỉ
mặc một chiếc áo khoác mang mấy chữ HS-TS-VN, cũng bị đuổi
học, bị đưa đi cải tạo, bị bắt nhốt, bị tù đầy…….

Đặt câu hỏi: Trực tiếp hay gián tiếp, quý vị có

đóng góp công sức tạo nên cái Đảng Cộng Sản Bán Nước
này không?

- Tự do ư? Tự do sao lại có chế độ cư trú, hộ khẩu. Tự

do sao lại có đủ thứ công an: công an khu vực, công an
phường, công an xã, công an huyện, công an tỉnh, công an nội
chính, công an tư tưởng, công an văn hóa... Những tên công an
này muốn bắt ai thì bắt, muốn giết ai thì giết, chỉ cần
dàn dựng một vụ đụng xe hay một màn vu cáo. Quân đội thì
khiếp nhựợc hèn nhát, công an thì có mặt khắp chỗ khắp
nơi, rình rập dò xét đời sống người dân. So với thời phong
kiến đế quốc thì đảng cộng sản của quý vị tàn bạo
độc ác gấp trăm ngàn lần hơn. Bao nhiêu người đã chết
trong các cuộc đấu tố thanh trừng? Bao nhiêu người đã bỏ
mạng trong các nhà giam trại tù cải tạo và trên các vùng kinh
tế mới? Bao nhiêu người đã chết trên đường vượt biên
vượt biển? Xin quý vị cho biết là ai đã gây ra những thảm
cảnh đó?

Đặt câu hỏi: Trực tiếp hay gián tiếp, quý vị có

trách nhiệm trong việc xây dựng nên chế độ tàn bạo này
không?

- Công bằng hạnh phúc ư? Công bằng hạnh phúc tại sao lại có

chế độ y tế bệnh viện tiêu chuẩn khác biệt, tại sao có
cảnh người dân nghèo phải chui rúc sống dưới những túp
lều chắp vá bằng thùng giấy và những mảnh ván ép được
dựng lên trong các bải tha ma. Lớp tuổi thanh niên thì con gái
thì phải bán mình cho Ba Tàu và Đại Hàn, con trai thì chích
choác nghiện ngập hoặc xuất khẩu đi làm cu li lao động.
Trước cửa bệnh viện từng hàng người nối đuôi nhau chờ
đến lượt bán máu. Theo các báo trong nước: Ngày 19 tháng 5
năm 2003 tại bến đò Cà Tang trên giòng sông Thu Bồn, ông lão
Võ Nghĩnh hơn 70 tuổi phải làm nghề chèo đò kiếm sống,
nhưng vì quá già yếu nên đã làm đò chìm gây ra cái chết cho
19 người. Ngày 7 tháng 10 năm 2006 tại bến đò Chôm Lôm, huyện
Con Cuông, tỉnh Nghệ An một em trai chưa đến tuổi thành niên
chở học sinh qua sông đến Trường THCS Lạng Khê làm chìm một
con đò khác khiến cho 25 em học sinh thiệt mạng. Ngày 19 tháng
12 năm 2010, báo chí lại đồng loạt đăng tin Cụ Đặng
Huyền 98 tuổi vẫn ngày ngày vẫn đạp xích lô chở khách
kiếm sống. Trong hội thi diễu hành xích lô ở Festival làng
nghề truyền thống Huế 2007, cụ được "vinh danh là
người lái xích lô có tuổi nghề nhiều nhất tại Huế".
Ngoài chuyện kiếm tiền nuôi bản thân, cụ Huyền còn phải
nuôi vợ là cụ bà Trần Thị Lặc, 86 tuổi, thường xuyên đau
ốm.

Ngoài cụ Đăng Huyền gần 100 tuổi vẫn phải đạp xích lô

thì mẫu tin trên Tuổi Trẻ Online ngày 31/01/2010 cho biết
"cụ Phạm Thị Đờn, 76 tuổi, thôn Quảng Hội, xã Vạn
Thắng, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, cơ thể chỉ như da
bọc xương, thức dậy từ 1 giờ khuya, lọ mọ xuống ngâm mình
dưới biển mò cua bắt ốc kiếm gạo ăn qua ngày… Từ 1 giờ
sáng đến gần 11 giờ trưa trong bụng không có hột cơm, ngâm
mình trong giá rét… nhưng chỉ bán được 17.000 đồng. Giá
trị cả ngày lam lũ chỉ thu được 10.000-20.000 đồng, gặp lúc
sóng to gió lớn chỉ được 5.000-7.000 đồng." (Nguồn:
Tưởng Năng Tiến, Chuyện Từ Những Con Đò - Cuối Năm Nói
Chuyện Cuối Đời). Trong khi đó "đầy tớ nhân dân" cùng
vợ con hay thân nhân của họ lại thừa tiền mua xe Roll Royce,
sắm máy bay riêng, sống vương giả trong những biệt thự lộng
lẫy nghỉ mát ở Cát Bà, Hạ Long, Tuần Châu, Chapa, Vũng Tàu.
Một tô phở ăn sáng của "đầy tớ nhân dân" ở đường
Láng Hạ Hà Nội giá 37.5 đôla tương đương $700,000.00 (bảy
trăm ngàn đồng) nhiều hơn số tiền cụ bà Phạm Thị Đờn
đi mò cua bắt ốc trong một tháng. (Nguồn: báo Tin Nhanh- Hà
Nội).

Đây là chưa nói tới những vụ công an bắt người rồi đánh

chết trong khi tạm giữ, vụ Hiệu Trưởng Sầm Đức Xương,
vụ Bí Thư Tỉnh Ủy Hà Giang Nguyễn Tường Tô mua dâm nữ sinh,
và biết bao vụ khác nữa bị chìm xuồng hay chưa phát hiện).

Đặt câu hỏi: Trực tiếp hay gián tiếp, quý vị có

trách nhiệm trong những bất công xã hội này không?

Trên đây là một vài thành tích cách mạng của cuộc cách

mạng long trời lở đất mà quý vị đã theo đuổi. Quý vị là
những bậc "lão thành cách mạng", tất nhiên phải được
trui luyện, phải sống, phải làm việc, phải có đạo đức và
thành tích cách mạng. Nói trắng ra là dù muốn dù không, trực
tiếp hay gián tiếp, chức vụ cao hay thấp, quý vị cũng đã là
những nhân tố tích cực của chế độ, bàn tay của quý vị
cũng đã góp phần gây nên thống khổ cho biết bao nhiêu người
và đã đưa đất nước đến khổ trạng ngày nay.

Vậy thì, không lẽ những kẻ tự khoác danh hiệu "lão thành

cách mạng" luôn miệng vì dân vì nước lại chính là những
tên hại dân hại nước. Các ông Nguyễn Hộ, Nguyễn Văn Trấn,
Tô Hải, Trần Độ, Bùi Tín, Hoàng Minh Chính và nhiều vị Lão
Thành Cách Mạng khác thì không thế. Khi biết sai, các vị ấy
tự nhận là mình sai. Các vị ấy đã nói lên sự thật!

Ông Nguyễn Hộ đã ghi lại trong Quan Điểm và Cuộc

Sống:
Bằng lực lượng võ trang nắm trong tay,
Đảng cộng sản Việt Nam đã tiến hành những cuộc tảo thanh
Cao đài, Hòa Hảo tức tấn công, giết hại hàng loạt tín đồ
và hàng giáo phẩm của hai đạo này trong những năm đầu của
cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp xâm lược (1945, 46, 47,
48, 49). Đối tượng tảo thanh lúc bấy giờ ở Miền Đông Nam
bộ bao gồm các tỉnh: Tây Ninh, Gia Định (nay là TP Hồ Chí
Minh), Thủ dầu một (Sông Bé), Biên Hoà (Đồng Nai), Bà Rịa
(Bà Rịa-Vũng tàu), Chợ Lớn (Long An) là đồng bào tín đồ Cao
Đài. Còn đối tượng tảo thanh ở Miền tây Nam Bộ bao gồm
các tỉnh: Long Xuyên, Châu Đốc (nay là tỉnh An Giang), Rạch Giá
(Kiên Giang), Bạc Liêu (Minh Hải), Cần Thơ,... là đồng bào tín
đồ Hòa hảo. Bằng cách tập hợp đồng bào đi phá hoại
đường để bảo vệ vùng giải phóng thuộc Củ Chi - gọi là
"khu 5" - Ban chỉ huy ra lịnh: ai có đạo đứng một bên, ai
không có đạo đứng một bên; ai có đạo ở lại, ai không có
đạo đi phá đường. Do vậy, hàng trăm người có đạo - toàn
là tín đồ Cao Đài gồm nam, nữ, ông già, bà cả, thanh niên,
trung niên - được điều động đến mé rừng rậm. Sau đó
nhiều loạt súng liên thanh nổ liên tiếp với tiếng người
kêu la gào thét kinh khủng. Thế là số phận bi thảm của
đồng bào Cao Đài nói trên đã kết liễu. Thi hài của họ
được vùi dập xuống các hầm đào sẵn ở rừng Làng và Sở
cao su Me-sắc (thuộc xã Phú Mỹ Hưng, Củ Chi). Vào năm 1950,
người ta đã phát hiện ở rừng Bời Lời (Trảng Bàng - Tây
Ninh) có 5-7 hầm toàn sọ người. Hay như ở xã Vĩnh Lộc
(thuộc Gò Vấp, Gia Định cũ), về sau này, hàng năm đều có
ngày giỗ thống nhứt - giỗ những đồng bào tín đồ Cao Đài
trong xã, ấp bị giết hàng loạt cùng một ngày bới các cuộc
tảo thanh tàn bạo nói trên của Đảng cộng sản Việt
Nam.

Không có một ai chê trách ông mà cả nước quý trọng ông vì

ông có dũng khí viết ra sự thật. Trước khi chết ông đã
viết bằng tim bằng máu. Những người như Nguyễn Hộ mới
xứng đáng gọi là lão thành cách mạng. Tiếp nối ông Nguyễn
Hộ là Bùi Tín trong Mặt Thật, Hoa Xuyên Tuyết, Nguyễn Mạnh
Tường trong Kẻ Bị Rút Phép Thông Công, Hà Sĩ Phu trong Chia Tay Ý Thức Hệ, Dắt Nhau Đi Dưới Bảng Đường Trí Tuệ, Tô Hải
trong Hồi Ký Một Thằng Hèn, Dương Thu Hương trong Những Thiên Đường Mù, Các Vĩ Nhân Tỉnh Lẻ, Bùi Ngọc Tấn trong Chuyện Kể Năm 2000, Nói Với Bè Bạn, Bùi Minh Quốc trong Thơ Vụt Hiện Trong Phòng Thẩm Vấn, Võ Văn Trực trong Quê Tôi Ngày Ấy, Trần Huy Quang trong Linh Nghiệm, Phùng Gia Lộc trong Cái Đêm Hôm Ấy Đêm Gì...

Tiếc thay những tên tuổi kể trên dù muốn nói cũng chỉ nói

được những gì họ biết. Đất nước này còn cần biết
nhiều hơn nữa. Cần phải nói ra cho đồng bào cả nước biết
và cả thế giới biết, nhất là để cho các thế hệ con cháu
chúng ta biết được hết sự thật. Đất nước này rất cần
những người có thiện tâm như các ông Nguyễn Hộ, Trần Độ
và của quý vị. Không ai đòi hỏi quý vị phải kể ra những
sai trái tội lỗi của mình mà chỉ mong là quý vị có đủ
dũng khí ghi lại những sự việc tai hại cho đất nước mà
chính quý vị đươc chứng kiến hoặc nghe kể lại. Tên nào ra
lệnh phá đường đốt chợ? Tên nào ra lệnh thủ tiêu chôn
sống người vô tội? Lệnh lạc hay tài liệu nào đã làm đất
nước băng hoại như ngày nay? Nếu không tiện đưa ra bây giờ
thì cứ ghi lại để lại cho con cháu đưa ra ngày mai, như Chế
Lan Viên, như Nguyễn Đình Thi... Ghi lại rõ ràng nơi chốn,
thời gian và tình tiết để cho các nhà viết sử có tài liệu,
nhưng cần nhất là không nên thêm bớt hay cường điệu. Trách
nhiệm không thuộc về quý vị bởi vì quý vị cũng chỉ là
những người thừa hành, hay nói một cách đúng hơn, quý vị
cũng chỉ là nạn nhân: Nạn nhân của một chủ nghĩa ảo
tưởng, nạn nhân của lòng yêu nước cuồng tín, nạn nhân
của sự lừa bịp tinh vi mà đầu xỏ là tên Việt gian lưu manh
bán nước Hồ Chí Minh cùng những tên ma đầu ác quỷ Trường
Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng Võ, Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ.

Ở đây không có chuyện mắt trả mắt răng trả răng hay

chuyện đấu tố bôi nhọ lẫn nhau mà chỉ là ghi lại những
sự kiện lịch sử để tìm ra sự thật và tìm hướng đi cho
dân tộc. Các vị phải cứu lấy con cháu của quý vị và
chuộc lại lỗi lầm trước đây, bởi vì nếu đất nước này
mỗi ngày một băng hoại để rồi bị lọt vào tay Trung Cộng
thì con cháu của quý vị trước sau sớm muộn cũng sẽ phải
chịu chung một số phận bi thảm như tất cả những người
dân Việt khác mà thôi.

Sức khỏe cùng với tuổi đời không cho phép quý vị đóng góp

được nhiều hơn thì đây là công việc hợp lý nhất, dể
dàng nhất và thiết thực nhất cho những người thực tâm có
lòng yêu nước, thực tâm đi làm cách mạng. Đây là công việc
và trách nhiệm mà quý vị có thể đóng góp cho đất nước
để trước khi nhắm mắt quý vị có thể thanh thỏa với chính
mình. Làm được những điều lợi dân ích nước như trên mới
đáng gọi là "Lão Thành Cách Mạng".

Ngược lại, chỉ là "Hèn Hạ Ngu Xuẩn" và "Thủ Phạm

Của Mọi Tội Ác"

LÊ MINH KHÔI

vendredi 17 juin 2011

Ý NGHĨA NGÀY QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA 19.6

10:40 AM CoVang

Phạm Phong Dinh

Ngày 20.7.1954 đánh dấu ngày quốc hận thứ nhất của dân tộc Việt Nam, sau khi cộng sản Bắc Việt cùng với thực dân Pháp ký kết Hiệp định Genève chia đôi đất nước, lấy vĩ tuyến thứ 17 chạy ngang con sông Bến Hải làm ranh giới Bắc Nam. Đó cũng là ngày đánh dấu cuộc di cư từ bỏ chế độ cộng sản lần thứ nhất của người Việt với gần một triệu dân miền Bắc gồng gánh bồng bế nhau tìm đủ mọi cách để được đáp tàu vào vùng đất miền Nam tự do, nơi đó nước Việt Nam Cộng Hòa non trẻ đang chập chững những bước đầu tiên trong cộng đồng chính trị thế giới.

LỜI PHÁT BIỂU CỦA CỐ Tổng Thống 

NGUYỄN VĂN THIỆU TRONG NGÀY 
QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA 19 - 6 - 1973






Biểu ngữ (((Căm thù Cộng quân dở trò pháo kích và khủng bố))) @ Saigon



Giữa bối cảnh một nửa đất nước quằn quại rên siết trong gông cùm cộng sản, trong bóng đêm của dối trá và tội ác, một nửa nước còn lại vừa phải đối phó với quân cộng sản còn nằm mai phục trong các chiến khu cũ thời Pháp và đương đầu với những vấn đề ổn định nội bộ, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, danh xưng lúc đó là Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, tiếp nhận di sản nghèo nàn và lạc hậu do phía quân đội Pháp hồi hương bàn giao lại, đảm nhận trọng trách nặng nề bảo quốc an dân. Ngày 1.7.1955 Bộ Tổng Tham Mưu của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam chính thức hình thành, đánh dấu ngày khai sinh một quân lực non trẻ mà đã dám chiến đấu chống lại cả một đại khối cộng sản quốc tế hung hãn tràn xuống từ phương Bắc. Tên tội đồ dân tộc, kẻ giết hàng triệu người mà miệng vẫn cười Hồ Chí Minh, một cán bộ cao cấp của cộng sản quốc tế, cúi đầu làm chó săn nhận vũ khí và thực hiện sách lược “Dùng người Việt giết người Việt” của quan thầy Nga Sô và Trung Cộng, vơ vét thanh thiếu niên miền Bắc đẩy vào miền Nam bắn dùng bọn thổ phỉ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thực hiện sách lược “Dùng người Miền Nam giết người Miền Nam” tàn sát chính đồng bào ruột thịt của mình.

Dưới thời của Tổng Thống Ngô Đình Diệm của nền Đệ Nhất Cộng Hòa, sau khi ông chính thức làm Tổng Thống sau cuộc Trưng Cầu Dân Ý 1955, Quân Đội Quốc Gia Việt Nam được cải danh thành Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, với xác quyết quân đội sẽ được phát triển và tối tân hóa thành một đạo quân mạnh để đập tan bất cứ một cuộc xâm lược nào từ phương Bắc. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong suốt lịch sử 20 năm chiến đấu bảo vệ tổ quốc, tuy có những lúc thăng trầm nghiêng ngửa, có những lúc thiệt hại nặng nề, nhưng những người chiến binh dũng cảm Việt Nam Cộng Hòa vẫn giữ vững ý chí chiến đấu, không chấp nhận chế độ cộng sản, quyết đánh cho đến hơi thở và giọt máu cuối cùng. Từ ngày 1.11.1963, sau khi một nhóm tướng lãnh đảo chánh lật đổ Tổng Thống Diệm, đất nước và quân đội Việt Nam Cộng Hòa bị suy yếu trầm trọng vì tình trạng chỉnh lý tranh giành quyền lực liên miên giữa các tướng lãnh. Cộng Sản Bắc Việt nương cơ hội này lăm le tràn xuống đánh dứt điểm miền Nam. Hồi tưởng lại hoàn cảnh đất nước thật đen tối trước ngày 19.6.1965, vận mệnh của nước Việt Nam Cộng Hòa như sợi chỉ mỏng manh treo nghìn cân trước làn sóng xâm nhập đã bắt đầu ồ ạt với hàng trăm ngàn quân chính qui Bắc Việt đã có mặt ở Miền Nam.

Về chính trị, tình hình đầy xáo trộn và bất ổn. Những cuộc xuống đường dưới sự khích động của những phần tử cộng sản nằm vùng và trà trộn liên miên xảy ra, mà hậu quả hiển nhiên và tức thì là sự rối loạn, khẩn trương của xã hội, dân chúng lúc nào cũng lo âu trước thời cuộc hỗn độn. Cộng sản nhân đó gia tăng những hoạt động tuyên truyền, phá hoại, lũng đoạn hàng ngũ những người Quốc Gia. Ở nông thôn thì Việt cộng gia tăng khủng bố dân chúng, bắt cóc, thủ tiêu và ám sát dã man những viên chức xã ấp tận tụy với chính nghĩa quốc gia, thậm chí những người dân vô tội dù chỉ tỏ chút ngần ngừ hay biểu lộ thái độ không hợp tác, ủng hộ, là đã có thể bị Việt cộng tuyên án tử hình và hạ sát. Bầu không khí sợ hãi, chết chóc bao trùm khắp miền nông thôn, nhất là ở những cùng xa xôi hẻo lánh mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chưa thể thiết lập nền an ninh vững chắc.
Về mặt quân sự, lợi dụng lúc giao thời, chính phủ dân sự Việt Nam Cộng Hòa không có khả năng tập họp được sức mạnh của quân đội, cộng sản liên tục cho binh đội xâm nhập Miền Nam, chuyển dạng thái chiến tranh xâm lược từ du kích chiến sang vận động chiến, mở những trận đánh lớn để thử thách sức mạnh và ý chí chiến đấu của quân dân Việt Nam Cộng Hòa, điễn hình là những trận đánh Bình Giả và Đồng Xoài cuối năm 1964 và giữa năm 1965. Trong bối cảnh chính tình nhiễu nhương, quân đội không được lãnh đạo và chỉ huy thích đáng, đã đưa đến thiệt hại rất nặng cho quân ta trong hai trận đánh này, mà chỉ trông cậy vào trái tim nồng nàn tình đất nước tình đồng bào và chính thân xác của các anh, người chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mới có thể cắn răng ngăn chống được cơn sóng dữ cộng sản đã mấp mé gần ngưỡng cửa Sài Gòn.

Về mặt kinh tế, vì chiến tranh tàn phá, đất đai bị bỏ hoang, do đó mức sản xuất sút kém, đời sống dân chúng lệ thuộc vào ngoại viện. Một đất nước từng xuất cảng gạo mà phải nuốt nước mắt nhận những hạt gạo gọi là viện trợ của nước ngoài. Trong khi đó cộng sản luôn tìm cơ hội cắt đứt đường tiếp tế giữa nông thôn và thành thị, làm cho mức sinh hoạt của xã hội ngày càng đắt đỏ và rất khó kiểm soát, gian thương lộng hành trắng trợn. Người dân ở thành thị khốn khổ vì nạn vật giá gia tăng hàng ngày bao nhiêu, thì người dân ở nông thôn càng oằn nặng dưới sự khủng bố và bóc lột ghê rợn của cộng sản bấy nhiêu. Đóng góp nuôi quân, thuế khóa nặng nề, dân công, sưu địch, con em bị bắt buộc cầm súng trong vùng cộng sản kiểm soát đã là nguyên nhân thúc đẩy đồng bào liều chết bỏ chạy ra vùng quốc gia để được quân đội bảo vệ và chính quyền giúp đỡ.

Đó là ngày đánh dấu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đứng lên gánh vác hai trách nhiệm lớn: bảo vệ nền tự do độc lập của Việt Nam Cộng Hòa, làm tiền đồn ngăn chống làn sóng cộng sản và xây dựng một đất nước lạc hậu nghèo khó vì chiến tranh triền miên với mục đích tiến lên thành một quốc gia phú cường, ngẩng cao đầu sánh vai với cộng đồng thế giới. Ngày 19.6.1965 thành phần Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương trong một buổi lễ ra mắt được tổ chức long trọng ở Thủ Đô Sài Gòn, đã tuyên thệ trung thành với Tổ Quốc, nhận trách nhiệm lèo lái quốc gia và làm thành phần tiền phương của quân dân Việt Nam Cộng Hòa chỉ huy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ đất nước. Từ thời điểm đó, ngày 19.6 được đánh dấu như là một cái mốc lịch sử, một chương mới của cuộc chiến đấu chống đại khối cộng sản quốc tế của quân dân Miền Nam, mà Quân Lực Việt Nam Cộng hòa là thành phần gồng gánh trách nhiệm lãnh đạo đất nước, xây dựng nền độc lập, tự do và dân chủ, bình định những mầm móng nằm vùng bạo loạn, ở tiền tuyến thì chỉ huy quân đội ngăn chống cơn sóng xâm lăng cuồng sát của đạo quân hiếu chiến cộng sản Bắc Việt. Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu sau khi đắc cử Tổng Thống đầu tiên của nền Đệ Nhị Cộng Hòa trong tháng 11.1967 vẫn tiếp tục cho tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm hàng năm ngày Quân Lực 19.6 với những cuộc diễn binh của tất cả các đơn vị và quân binh chủng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, để biểu dương sức mạnh và ý chí quật khởi của dân tộc Việt Nam chống xâm lược cộng sản từ phương Bắc.

(Ngày 19.1.2004, cựu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, người từng một thời lái máy bay oanh tạc những cơ sở tàng trữ vật chất dành cho cuộc chiến tranh xâm lược Miền Nam ở Miền Bắc, người từng tuyên bố tử thủ Miền Nam trong những ngày cuối cùng của tháng 4.1975 ở Thủ Đô Sài Gòn, đã tự động lìa bỏ hàng ngũ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nộp đơn xin cộng sản Hà Nội khoan hồng cho ông ta được phép về Việt Nam. Nguyễn Cao Kỳ đã nhục nhã quỳ gối viết những hàng chữ ô uế trong lá đơn xin chiếu khán vào Việt Nam, thể theo những điều kiện của cộng sản Hà Nội. Kỳ đã kính cẩn và khép nép ký cái tên tầm thường của mình dưới huy hiệu cờ máu của cộng sản, mặc nhiên chối bỏ cái quá khứ oanh liệt được làm người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Từ giờ phút đó, Nguyễn Cao Kỳ, con người một thời từng thốt lời ngạo nghễ với giặc cộng và cả với đồng minh, giờ đây đã nhận chịu sự “khoan hồng, nhân đạo” của giặc một cách tuyệt đối và vô điều kiện. Còn nhớ ngày xưa trong những lần Bắc phạt trở về, chỗ ngực chiếc áo bay màu đen của ông Kỳ vàng óng Lá Quốc Kỳ Vàng mà ông rất hãnh diện mang trên đó, thì ngay nay Kỳ đã cúc cung cúi đầu quy phục lá cờ đỏ, biểu tượng của diệt chủng và diệt dân tộc của cộng sản Hà Nội, bằng một thái độ rất ươn hèn rất không tương xứng với vị thế của một người cựu Tướng chỉ huy toàn Miền Nam. Với ảo tưởng rằng sẽ nhận được những cái hôn thắm tình “hữu nghị” và rất “anh em” của bọn cộng sản Hà Nội, Kỳ xênh xang áo gấm về nước. Thật ô nhục, với thân phận là người cao nhất nước của năm 1965 trong cương vị Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, thì đáng lẽ ít nhất gã thủ tướng của bạo quyền Hà Nội là Phan Văn Khải sẽ ra tận cầu thang máy bay hôn lên cái trán bóng mỡ và lên hai đôi gò má dầy da của Kỳ để tỏ rõ tinh thần “hòa giải hòa hợp” giữa riêng bọn chúng và chỉ mỗi bọn chúng với nhau, thế mà chỉ lèo tèo có một gã gọi là chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc và một gã thành ủy Sài Gòn.

Cộng sản thường có lối đặt chữ rất mù mờ bất thành câu. Mặt Trận Tổ Quốc là mặt trận gì, nếu phải đặt cho tròn câu với đầy đủ danh từ và động từ, thì phải là Mặt Trận Tổ Quốc Đứng Lên hay Ngồi Xuống hoặc Giải Phóng gì đó, Mặt Trận Tổ Quốc khơi khơi là thế nào ? Như vậy người ta thấy ngay nó là một cái mặt trận không làm gì cả, không ra gì cả, từ đó suy ra rằng gã chủ tịch chỉ là một cái con người rơm lúc lắc theo những cơn gió ngoài đồng. Đưa một cái hình nộm hữu danh vô thực, vô quyền và không giữ vị trí tối cao nào trong hệ thống tổ chức cộng sản, Hà Nội đã trịch thượng gởi một cái thông điệp đến Nguyễn Cao Kỳ, mà chúng ta có thể hiểu như sau: “Nông Đức Mạnh, Phan Văn Khải và Trần Đức Lương sẽ không bao giờ hạ mình xuống ngang hàng với gã hàng thần lơ láo Nguyễn Cao Kỳ, dù là chỉ để ban cho một cái vỗ vai khen ngợi, thì đừng có mà mơ tưởng đến những cái hôn của chúng và đôi cánh tay giang ra ôm ấp trong tư thế “hòa hợp hòa giải”. Lại càng khó có thể được ngồi gác chân trong những bộ salon đắt tiền ở Bắc Bộ Phủ bàn chuyện đại sự với cộng sản”. Đó là một cách làm nhục đối phương một cách khá là trắng trợn và rõ ràng của Hà Nội, Nguyễn Cao Kỳ đủ thông minh để biết điều đó và đủ hèn để cúi đầu im lặng leo lên máy bay trở về Mỹ quốc, không kèn và không trống.

Từ nay, những nhà viết sử đã có thể thêm vào đằng sau những Trần Di Ái, Trần Ích Tắc, Mạc Đăng Dung, Lê Chiêu Thống cái tên Nguyễn Cao Kỳ. Còn đối với bè lũ cộng sản Hà Nội:

Chừng nào mà chúng chưa tự trói mình quỳ gối cúi xin dân tộc tha thứ cho những tội ác tày trời của chúng.
Ngày nào mà nhân phẩm người phụ nữ còn bị chà đạp, hàng trăm ngàn cô gái còn bị bán khắp thế giới làm nô lệ tình dục.
Chừng nào mà hàng triệu trẻ em nghèo còn thất học và vẫn lang thang khắp đầu đường xó chợ.
Ngày nào mà người công nhân Việt Nam còn bị bọn chủ ngoại quốc hành hạ, xúc phạm danh dự và thân thể.
Chừng nào mà những nghĩa trang của những tử sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn bị san bằng và hủy diệt, những người chiến sĩ thương phế Việt Nam Cộng Hòa còn bị chà đạp nhân phẩm và bị bỏ rơi ngoài lề xã hội.
Ngày nào mà dân tộc Việt Nam không được hoàn toàn tự do bày tỏ chính kiến khác biệt, niềm tin tôn giáo, tín đồ và những nhà lãnh đạo tôn giáo còn bị bách hại, giam cầm.

Và trên tất cả, chừng nào mà dân tộc Việt Nam vẫn chưa được cho sống như con người đúng nghĩa với những quyền lợi căn bản. Thì ngày ấy cộng sản Hà Nội đừng có ảo tưởng mơ mộng cái gọi là hòa hợp hòa giải. Chúng chỉ có hai chọn lựa. Thứ nhất, tự nguyện trao trả đất nước lại cho dân tộc để có thể được cứu xét tha thứ. Thứ hai, dọn mình chờ ngày toàn dân đứng lên lật đổ chúng, lúc đó, xin được báo trước và cảnh cáo cho chúng biết, đến sắt thép cũng phải nát tan thành tro bụi dưới cơn thịnh nộ của trời và người).

Với sự trợ giúp của các nước Đồng Minh, trong đó phần đóng góp chính yếu đến từ Hoa Kỳ từ sau năm 1954, QLVNCH đã dần lớn mạnh, không những đủ khả năng chận đứng đà xâm lăng cuồng bạo của binh đội cộng sản Bắc Việt, mà còn đánh cho bọn chúng tan tành thành từng mảnh vụn trong những chiến thắng lừng danh thế giới như Mậu Thân 1968, chiến dịch hành quân sang Kampuchea đập nát những hang ổ kho tàng tiếp liệu cộng quân năm 1970. Trong cuộc hành quân sang Hạ Lào, chiến dịch Lam Sơn 719, mặc dù bị báo chí và truyền thông Hoa Kỳ cũng như nằm vùng cộng sản tiết lộ bí mật, QLVNCH ngay từ đầu đã ở trong thế hạ phong nhưng vẫn đánh thiệt hại rất nặng lực lượng cộng quân. Chiến thắng lừng lẫy nhất mà đã làm cho toàn thế giới phải cúi đầu ngưỡng phục, kể cả giới truyền thông báo chí phản chiến và thân cộng cũng phải xấu hổ gục đầu công nhận tính chất xâm lược rõ ràng của cộng sản Hà Nội và tinh thần chiến đấu dũng mãnh của QLVNCH. Đó là cuộc chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. QLVNCH đã để lại trong lịch sử Việt Nam trang sử chiến đấu chói lọi nhất, thiêu cháy huyền thoại Điện Biên Phủ Võ Nguyên Giáp. Sau cơn thảm bại mùa hè 1972 nhục nhã, Giáp bị cách chức.

QLVNCH chiến đấu trong nỗi cô đơn cay cực mà chưa từng có một đội quân nào trên thế giới đã trải qua hoàn cảnh ngặt nghèo tương tự. Vừa phải đổ máu xương ngăn chống cộng sản ở phía trước mặt mà còn phải hứng chịu những vết đâm lút sâu của những thế lực bạn bè từ phía sau lưng và sự hững hờ từ phía hậu phương. Người chiến binh Việt Nam Cộng Hòa bị trói tay không cho đánh, mặc dù chỉ chiến đấu để tự vệ, bảo vệ làng xóm. Chính họ đã hy sinh mạng sống để cho dân tộc được sống và được hạnh phúc. Sự dàn xếp của những thế lực cộng sản quốc tế và tư bản đã đưa đến ngày tang thương 30.4.1975, QLVNCH một lần nữa bị buộc phải hoàn toàn buông súng. Bọn cộng sản tiểu nhân đắc chí ngổ ngáo tiến vào chiếm lấy Việt Nam Cộng Hòa, ngông nghênh tuyên bố đại thắng, thực hiện sách lược sĩ nhục lăng mạ và đày ải những người chiến binh QLVNCH và vợ con gia đình của họ. Nhưng thật sự có phải cộng sản Bắc Việt đã chiến thắng hay không? Sau hơn một phần tư thế kỷ kể từ ngày 30.4.1975, giờ đây mọi góc cạnh của sự thật đã được phơi bày dưới ánh sáng của mặt trời. Chúng ta khẳng định mạnh mẽ QLVNCH không hề thua và cộng sản không hề thắng trong trận chiến đấu cuối cùng ngày 30.4.1975. Sự thắng thua chỉ được phân định khi hai lực lượng cùng đối mặt chiến đấu giữa hai chiến tuyến. Hai võ sĩ so găng trên võ đài, một võ sĩ bị trói tay chân và với sự đồng tình của ban trọng tài đã bị võ sĩ kia đánh đập rồi tự đưa tay tuyên bố chiến thắng và tha hồ lăng mạ sĩ nhục đối phương. Cuộc thắng thua còn chưa được phân định khi viên đạn cuối cùng còn chưa được bắn ra khỏi nòng súng.

Giờ đây, sau ba mươi sáu năm chứng kiến những tội ác ghê tởm hãi hùng của cộng sản Hà Nội bủa lên đầu chính dân tộc của chúng, công luận thế giới đã khẳng định chế độ cộng sản là một cái quái thai kinh khủng nhất trong lịch sử nhân loại và cần phải hủy diệt nó. Ngọn gió đã đổi chiều thuận lợi cho QLVNCH. Hệ thống truyền thông và báo chí ngoại quốc từng một thời ngày xưa góp tay bôi nhọ làm nhục người chiến sĩ VNCH, ngày nay đã hồi phục danh dự cho QLVNCH, biểu dương tinh thần chiến đấu và chính nghĩa của Việt Nam Cộng Hòa. Cuối cùng thì những giá trị nhân bản thực sự của người lính Việt Nam Cộng Hòa đã được thế giới thừa nhận và tôn vinh. Những nắm xương khô đang mục rã theo với thời gian nghiệt ngã của 300 ngàn tử sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nằm câm nín u uất dưới những nghĩa trang hoang phế điêu tàn, hay ở những chống rừng sâu núi thẳm, cùng với nửa triệu chiến sĩ thương phế mà phần lớn còn sống lây lất và khắc khoải bên kia bờ Thái Bình Dương, tất cả những người anh hùng vĩ đại đó giờ đây đã được tôn vinh. Điều mà những người còn sống, những người còn lành lặn thân xác phải làm là sẽ cùng nhau tìm cách cắm lên bia mộ các anh những nén hương của lòng tri ân với những giọt nước mắt tiếc thương, cùng nhau gởi về cho các anh thương phế chút lòng của những người đồng đội mà ngày xưa từng kiêu hãnh đứng chung dưới lá Quân Kỳ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, để các anh còn tiếp tục nuôi dưỡng một niềm tin. Rồi sẽ có một ngày, cơn thịnh nộ của đất trời và của toàn dân tộc Việt Nam sẽ như con sóng thần biển Đông cuốn xô đi những tàn tích của cái ác.

Chúng ta cũng nghiêng mình trước Bức Tường Đá Đen ở Washington D.C, tri ân hơn 58,000 chiến sĩ Hoa Kỳ trận vong, những người bạn đã từng sát cánh chia sẽ nỗi cơ cực và chết chóc của chiến tranh với người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, vì nền tự do của đất nước Việt Nam Cộng Hòa. Chúng ta tri ân và vinh danh 300,000 chiến binh thương phế Hoa Kỳ đã bỏ lại một phần thân thể của các anh trên một đất nước thật quá xa xôi để trở về nhận chịu sự thờ ơ lãnh đạm của chính người dân Mỹ, cùng mang mễn những chứng bệnh tinh thần trầm kha. Giờ đây thì anh linh của tất cả những người lính trận vong Hoa Kỳ và Việt Nam đã có thể đi về phía cõi vĩnh hằng với lòng thanh thản, những chiến sĩ thương binh Hoa Kỳ và Việt Nam đã có thể thể ngẫng cao đầu cười nửa miệng trên những đống gạch đổ nát ngỗn ngang của bức tường thành Bá Linh và những mảnh vụn của cái quái thai chủ nghĩa cộng sản. Chính là các anh, người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và người lính Quân Lực Hoa Kỳ đã là nỗ lực chánh hủy diệt cái ác mệnh danh là chủ nghĩa cộng sản đó. Chúng ta có thể xác quyết một điều là, ngày nào mà người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa còn tập họp, đoàn kết đứng chung dưới lá Quốc Kỳ và Quân Kỳ Việt Nam Cộng Hòa, thì ngày đó cộng sản Hà Nội còn rất run sợ, ngày ăn không thấy ngon, đêm ngủ không được yên giấc. Chúng phải hiểu một điều đơn giản nhưng rất thật là, cho dù chúng có nặn cái bộ óc “trí tuệ” của loài Vượn đến thế nào để cho ra bao nhiêu cái nghị quyết nhắm vào người Việt hải ngoại và Tập Thể người lính QLVNCH, thì cũng sẽ hoàn toàn không ăn được cái giải gì, giống như những cú đánh mất hút vào cõi hư vô. Chúng chỉ thắng được chúng ta ngày 30.4.1975, khi chúng ta bị buộc phải buông súng mà thôi. Ba mươi năm trước, cộng sản Hà Nội cậy có súng AK để đánh đập, hạ nhục, giết chóc những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không còn vũ khí trong những trại tù khắc nghiệt và dã man của chúng. Ngày nay, ba mươi sáu năm sau, tuy rằng trong tay người lính chúng ta không còn cây súng M 16, nhưng chúng ta có rất nhiều sức mạnh mà cộng sản Hà Nội hằng run sợ.

Thứ nhất, sự phẫn nộ của người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hàng trăm ngàn người lính đã ra được đến bến bờ tự do, dù họ không còn vũ khí, nhưng mỗi trái tim bất khuất của các anh chính là thứ vũ khí sắc bén nhất và hữu hiệu nhất, những trái tim đó đã kết nên thành một bức tường cứng rắn. Ba mươi mấy năm nay, cộng sản đã hằng bắn phá vào bức tường ấy, chỉ để thấy rằng chúng đã một lần nữa chiến bại. Tập Thể Người Lính Việt Nam Cộng Hòa vẫn luôn là lực lượng duy nhất đối kháng và ngăn chống cực lực mọi cuộc tấn công của cộng sản, dù là bằng bất cứ hình thức nào.

Thứ hai, cuộc chiến đấu bằng cây viết của những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Cộng sản từng tuyên án: “Một nhà văn “ngụy” bằng mười sư đoàn tác chiến”. Ngày nay, cây viết của những người lính đã trở thành cây súng M 16 bắn những giọt mực ngạo nghễ và thách thức vào mặt cộng sản Hà Nội, ngòi bút xé toang bức màn đen tối của giả dối và tàn bạo để đưa ra trước công luận thế giới và lịch sử sự thật về cuộc chiến tranh xâm lược của cộng sản quốc tế lên Miền Nam và cuộc chiến đấu bảo quốc kiệt liệt của quân dân Miền Nam.

Thứ ba, chiến thắng vẻ vang chấn động cả thế giới của người Việt hải ngoại qua sự kiện vừa kỳ lạ lẫn kỳ diệu: Lá Quốc Kỳ Vàng Đại Nghĩa Ba Sọc Đỏ hiện nay đã phất phới, ngạo nghễ tung bay ở nhiều tiểu bang, quận hạt, thành phố và trong nhiều trường đại học khắp nước Mỹ. Đó há chẳng phải là một dấu hiệu, một sự thừa nhận chân thành của người Mỹ, rằng chỉ có Lá Cờ Vàng Việt Nam mới là biểu tượng của chính khí dân tộc Việt Nam, là biểu trưng của cuộc chiến đấu quật cường của một dân tộc nhỏ bé chỉ có gần 18 triệu người mà đã anh dũng ngăn chống một đại khối cộng sản quốc tế với dân số hơn 1 tỉ người. Không chỉ ở Hoa Kỳ, mà gần như trên toàn thế giới, Lá Quốc Kỳ Vàng Ba Sọc Đỏ của Việt Nam Cộng Hòa vẫn hằng năm tung bay trên cột cờ thị chính của những thành phố lớn trong ngày 30.4. Đó há chẳng phải là sự ghê tởm và chối bỏ chủ thuyết cộng sản và lá cờ máu tanh hôi của bè bọn cộng sản Hà Nội của lương tâm thế giới hay sao.

Ngày Quân Lực 19.6 hàng năm có nhiều ý nghĩa quan trọng. Nó đánh dấu sự bắt đầu hồi sinh của QLVNCH và của niềm tin chính nghĩa quốc qua cuộc đọ sức gay go giữa cái Thiện và cái Ác. Ngày tàn của bọn cộng sản Hà Nội không còn bao xa nữa. Bên trong cái vỏ bọc hào nhoáng phù du hiện tại mà bọn cộng sản tô vẻ ở quê nhà, chỉ là một cái ruột rỗng tuếch mục nát chờ giờ sụp đổ. Với sự tập họp của những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, được thể hiện qua sự đoàn kết cao độ trong Tập Thể Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa Hải Ngoại, kết hợp với những phong trào đấu tranh đòi quyền sống, quyền làm người và quyền tự do tín ngưỡng ngày càng sôi sục ở quốc ngoại và quốc nội, dân tộc Việt Nam có quyền hy vọng sẽ có nhiều chiến thắng khác liên tục và lừng lẫy hơn, để cuối cùng lật đổ được bè lũ bạo quyền Hà Nội.

Anh linh của tiền nhân, của những vị thần tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn, Trung Tá Cảnh Sát Quốc Gia Nguyễn Văn Long, các Trung Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng, sĩ quan và các chiến sĩ Vị Quốc Vong Thân xin hãy hiển linh thương xót phù trì cho dân tộc Việt Nam và QLVNCH có được nhiều sức mạnh đứng lên lật đổ bạo quyền cộng sản, đem ánh sáng công chính và hạnh phúc trở lại trên khắp mọi miền đất nước, ném bọn chúng vào cõi sâu thẳm tối tăm nhất và đời đời của địa ngục.

Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm

Phạm Phong Dinh
Hoàn cảnh bi đát của Việt Nam Cộng Hòa trước ngày 19.6.1965 là như vậy. Đất nước đã bước đến mấp mé bên bờ vực thẳm, chỉ một bước nữa thôi, quân dân Miền Nam rất có thể sẽ nằm dưới sự thống trị của cộng sản Hà Nội. Nhưng những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không bao giờ cho phép điều đó xảy ra. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, một tập thể duy nhất có tổ chức chặt chẽ và tinh thần kỷ luật cao, không thể chần chờ trước cơn quốc biến, nên đã đứng ra nhận chịu trên vai trách nhiệm nặng nề cứu nguy đất nước và dân tộc. Cho đến gần giữa năm 1965, Hội Đồng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã loại bỏ được những thế lực phân chia sức mạnh quân đội, cùng chia xẻ trách nhiệm lãnh đạo và điều hành guồng máy quốc gia. Nhưng để tỏ rõ thiện chí và quyết tâm kiến tạo nền dân chủ cho Miền Nam, ngày 5.5.1965, Hội Đồng Quân Lực đã quyết định trao quyền lãnh đạo đấ nước lại cho chính phủ dân sự, cụ Phan Khắc Sửu được mời làm Quốc Trưởng, Bác sĩ Phan Huy Quát làm Thủ Tướng. Nhưng cũng chỉ hơn một tháng sau, ngày 11.6.1965, chính phủ dân sự do cụ Phan Khắc Sửu làm Quốc Trưởng nhận định rằng tình hình đất nước đã đến lúc lâm nguy nếu người quốc gia không mạnh mẽ hành động và tìm ra một con đường tức thời nào đó. Con đường đó, sau những cân nhắc, chính là sức mạnh của Quân Đội. Chính phủ Phan Khắc Sửu quyết định trao trả quyền lãnh đạo đất nước lại cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bằng tuyên cáo chính thức như sau:

TUYÊN CÁO
CỦA QUỐC TRƯỞNG
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG QUỐC GIA LẬP PHÁP VÀ
THỦ TƯỚNG CHÁNH PHỦ VIỆT NAM CỘNG HÒA

Sau khi duyệt lại tình trạng ngày càng một khẩn trương của đất nước, sau khi đã xét lại và xác nhận rằng : những cơ cấu và thể chế Quốc Gia hiện tại không còn phù hợp với tình thế, sau khi đã hội ý cùng toàn thể tướng lãnh Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa tại Phủ Thủ Tướng ngày 11.6.1965, chúng tôi, Quốc Trưởng Việt Nam Cộng Hòa, Hội Đồng Quốc Gia Lập Pháp, Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa đồng thanh quyết định long trọng trao trả lại cho Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa trách nhiệm và quyền hành lãnh đạo quốc gia đã được Hội Đồng Quân Lực ủy thác cho chúng tôi chiếu theo Quyết Định số 8 ngày 5.5.1965, Tuyên Cáo số 7 ngày 5.5.1965, Quyết Định số 5 ngày 16.2.1965, Quyết Định số 6 ngày 17.2.1965 và Quyết Định số 4 ngày 16.2.1965.
Yêu cầu toàn thể đồng bào các giới không phân biệt giai tầng địa phương, đảng phái và tôn giáo, ủng hộ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong việc lãnh đạo toàn Quân và toàn Dân đúng theo tinh thần của Cách Mạng 1.11.1963.
Làm tại Sài Gòn ngày 11.6.1965
Phan Khắc Sửu
Quốc Trưởng Việt Nam Cộng Hòa
Phan Huy Quát
Thủ Tướng Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa
Phạm Xuân Chiểu
Chủ Tịch Hội Đồng Quốc Gia Lập Pháp

Ngày 12.6.1965, trong một buổi họp quy tụ tất cả những tướng lãnh đang nắm những trọng trách trong Quân Đội từ cấp Tổng Tham Mưu Trưởng, Tư Lệnh bốn Vùng Chiến Thuật cho đến các Tư Lệnh Quân Binh Chủng, Hội Đồng Quân Lực đã đề cử Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu đảm nhận chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia (tương đương Tổng Thống), Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đảm nhận chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (tương đương Thủ Tướng), thông qua quyết định như sau:

QUYẾT ĐỊNH
THÀNH LẬP ỦY BAN LÃNH ĐẠO QUỐC GIA
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
- Sau khi nghiên cứu Bản Tuyên Cáo Chung của Quốc Trưởng, Hội Đồng Quốc Gia Lập Pháp và Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa ngày 11.6.1965 trao trả trách nhiệm và quyền hành lãnh đạo Quốc Gia cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
- Chiếu biên bản Đại Hội Đồng các Tướng Lãnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ngày 12.6.1965.
Các Tướng Lãnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Tư Lệnh các vùng chiến thuật và quân binh chủng đã quyết định:
Quyết Định:
Điều 1. Thành lập một ủy ban lãnh đạo của Quân Lực mệnh danh là Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia.
Điều 2. Thành phần của Ủy Ban nói trên gồm có : một Chủ Tịch, một Tổng Thơ Ký, một Ủy Viên phụ trách điều khiển Hành Pháp, Tổng Trưởng Quốc Phòng, Tổng Tham Mưu Trưởng, các Tư Lệnh Vùng Chiến Thuật, Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô.
Điều 3. Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia thay mặt toàn thể Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa điều khiển Quốc Gia.
Điều 4. Hoàn toàn tín nhiệm và chỉ định:
A. Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia: Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu.
B. Tổng Thư Ký: Trung Tướng Phạm Xuân Chiểu.
C. Ủy Viên phụ trách điều khiển Hành Pháp: Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ.
Điều 5. Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia có nhiệm vụ thiết lập thể chế và các cơ cấu Quốc Gia cùng thành lập một Nội Các Chiến Tranh.

Sài Gòn, ngày 14 tháng 6 năm 1965
Toàn thể các Tướng Lãnh và Tư Lệnh Quân Binh Chủng
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

http://www.thegioimoionline.com/tm.php?recordID=2491
Posted in: LỊCH SỬ VN