Thư Tố Cáo Ông Nông Đức Mạnh, Ông Nguyễn Tấn Dũng và Ông Hoàng Trung Hải
(tiếp theo)
PHẦN BỔ SUNG II
Hôm vợ tôi mới mổ xong và đã tỉnh lại thì ông Dũng có sang thăm. Ông ghé vào một lúc hỏi han tình hình rồi bảo phải đi ngay cho kịp chuyến bay.
Ông Mạnh và ông Hải buộc Trọng phải lựa chọn giữa tính mạng đứa con gái và tôi. Các ông ấy yêu cầu Trọng phải làm thế nào để tôi tin là không có các ông trên đời này. Trọng đảm bảo với vợ chồng tôi là sẵn sàng hy sinh cả bản thân và đứa con để chúng tôi sớm được đoàn tụ. Ông Hải cho người bí mật giam giữ con gái Trọng tại một địa điểm hẻo lánh ở Hải Phòng, cách Hà Nội khoảng 200km. Trọng cho biết là đã cài được người của mình vào trong đám vệ sỹ và đang tìm mọi cách để cứu đứa con và sau khi giải cứu thành công sẽ sẵn sàng chơi bài ngửa với mấy ông này. Các ông ấy vẫn giám sát chặt chẽ gia đình tôi và tỏ vẻ yên tâm khi thấy mọi người trong gia đình nghĩ rằng tôi bị vợ lừa dối rồi mắc bệnh hoang tưởng. Người nhà của tôi cũng bắt đầu đi tìm tôi qua đám bạn bè và người thân.
Ngày 6/12/2008, vợ tôi đã tương đối hồi phục (các bác sỹ đánh giá là nhanh hơn ngoài dự tính) và được cho về London để theo dõi và điều trị tiếp tại nhà. Tuy nhiên, do quá lo lắng cho tôi và dùng điện thoại di động nhiều nên khoảng 10 ngày sau cô ấy cảm thấy chóng mặt, phải vào một bệnh viện ở London để điều trị tích cực và tới ngày 27/12 vợ tôi mới ra viện về nhà. Đến đây thì lại xẩy ra một biến cố quan trọng. Thời gian từ New York trở về London, nhiều lần vợ tôi nhờ Trinh gửi tiền cho tôi qua hệ thống Western Union nhưng anh ta cứ lần lữa và tìm cách thoái thác, lấy cớ là đang bị cảnh sát truy nã nên hạn chế lộ diện. Vợ tôi thậm chí quỳ lạy dưới chân Trinh và nói sẵn sàng cho anh ta hết số tiền của mình để nhờ gửi tiền cho tôi nhưng vẫn không sao lay chuyển được anh ta.
Tôi nói với vợ là nhờ Trinh ghi địa chỉ nhà cho mình để phòng có bị lạc thì còn biết cách nhờ người đưa về nhưng anh ta cũng tìm cách lảng tránh, nhờ anh ta chụp ảnh vợ con tôi và nhà cửa để gửi qua mạng về cho tôi anh ta cũng lờ đi. Vợ tôi còn nhớ là khi mới từ Paris sang London thì thấy trước nhà có cái biển xanh ghi địa chỉ nhà nhưng thời gian sau thì không còn thấy nữa. Tôi nghĩ chính Trọng đã chỉ đạo Trinh không được cho vợ tôi biết bất kỳ manh mối nào về nơi mình đang ở, đề phòng vợ tôi cho tôi biết và tôi, một khi đã quá sức chịu đựng, có thể manh động đứng ra tố cáo rồi xin tị nạn chính trị để được đoàn tụ với vợ con. Một hôm, quá uất ức vì hết sức lo lắng cho tôi trước sự dửng dưng của Trinh, vợ tôi đã nặng lời với Trinh và anh ta liền bỏ nhà đi biệt luôn. Thời gian đó Thuỷ cũng thường xuyên bỏ đi chơi bạt mạng, phần vì quá nhớ thương đứa con thơ dại đang bị giam cầm ở Việt Nam, phần vì Trọng không hề đếm xỉa gì tới Thuỷ, không những không cho Thuỷ biết tin tức gì về đứa con mà còn không tiếc lời mắng mỏ Thuỷ vì đã để xẩy ra chuyện như thế.
Tối 4/1/2008, sau khi Trinh đã bỏ đi từ vài hôm trước, con tôi bị sốt cao. Vợ tôi hốt hoảng không biết làm thế nào vì Thuỷ cũng đi chơi chưa về, trong nhà chỉ còn mỗi bà An giúp việc. Cuống quá, vợ tôi đánh liều chạy sang nhà hàng xóm bên cạnh, nhờ ông chủ nhà sang đưa con đi bệnh viện (bình thường nhà vẫn có hai vệ sỹ gác cổng nhưng không hiểu sao hôm ấy vợ tôi chạy ra cổng không thấy đâu.). Vợ tôi chẳng còn tâm trí nào nữa chỉ kịp ôm con rồi lên xe ô tô, bà An cũng vội vàng cầm chiếc túi xách nhỏ của vợ tôi rồi đi mà không biết cách khoá cửa nhà lại thế nào. Sáng hôm sau, khi bà An trở lại nhà thì nhà cửa đã bị khoắng sạch, kể cả giấy tờ hộ chiếu của vợ tôi và của bà. Khi vào viện, con tôi phải nằm phòng cách li và điều trị tích cực. Suốt 5 hôm liền, từ hôm 2/1 đến 7/1, tôi không nhận được tin tức gì của vợ con. Lòng tôi cứ như lửa đốt. Mãi đến chiều 7/1, tôi mới nhận được tin của vợ tôi qua mạng. Thì ra, khi đưa con đi cấp cứu vợ tôi không kịp cầm điện thoại nên bị bọn trộm khoắng luôn và không nhớ được số điện thoại của tôi. Vả lại mấy hôm đầu vào viện vợ tôi phải thường xuyên túc trực bên con nên chẳng còn tâm trí đâu mà nghĩ cách liên lạc với tôi. Chiều ngày 7/1, khi sức khoẻ của con đã tương đối hồi phục, vợ tôi mới vào phòng bác sỹ nhờ máy tính nhắn tin cho tôi qua mạng Internet. Sau khi cho tôi biết được tình hình, vợ tôi đề nghị tôi cho cô ấy được trở về Việt Nam, cô ấy thấy chán nản và căng thẳng quá. Tuy nhiên, sợ rằng cô ấy trở về Việt Nam thì sẽ kéo theo những hệ luỵ khó lường nên tôi động viên vợ hãy tiếp tục ở lại và cố gắng chờ đợi. Con tôi nằm viện thêm hai ngày nữa và đến ngày 9/1 thì ra viện. Hai gã vệ sỹ cũng xin thanh lý hợp đồng với Trinh và biến mất.
4h chiều ngày 12/1 (tức khoảng 10h sáng giờ London), vợ tôi gọi điện cho tôi và lại tha thiết đề nghị được trở về Việt Nam. Trinh lúc đầu không muốn cho vợ tôi về nhưng vì thấy cô ấy tha thiết quá nên bảo là hãy cứ giấu Trọng mà về đi. Cô ấy cũng cho biết là đã xin ông Dũng, ban đầu ông ấy không đồng ý nhưng sau thấy thái độ vợ tôi khẩn thiết quá ông bèn nói, “con phải hỏi ý kiến Hùng đã, nếu Hùng đồng ý thì bố sẽ cho con về.” (Ông Dũng là người duy nhất biết được vợ chồng tôi vẫn liên lạc với nhau. Cả ba ông vẫn gọi điện cho vợ tôi nhưng ông Dũng là người thường xuyên quan tâm nhất.) Lần này thì tôi thấy tình cảnh của mình đã gần tới mức quá sức chịu đựng, nhớ thương và lo lắng cho vợ con không sao chịu nổi, nên tuy thoạt tiên hơi chút lưỡng lự song rồi tôi cũng đồng ý và động viên cô ấy trở về. Sau đấy, vợ tôi gọi điện lại cho tôi biết là đã báo với ông Dũng và ông cũng đang thu xếp cho máy bay sang đón.
(Thực ra trong thâm tâm tôi đã định là sẽ cố hết sức đợi cho đến Tết Mậu Tý 2008 mà tình hình vẫn bế tắc thì sẽ đứng ra tố cáo và xin tị nạn chính trị. Bởi lúc đó sức chịu đựng của tôi chắc chắn đã vượt quá giới hạn. Hơn nữa, từ giữa tháng 12/2008, Trọng đã không còn liên lạc gì với tôi và sau đấy cũng không liên lạc với vợ tôi nốt. Về sau này thì cả Trinh, Thuỷ cũng không còn liên lạc được với Trọng. Tôi biết là Trọng đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan. Đứa con gái là thứ duy nhất mà các ông ấy có thể khống chế Trọng và thật khó lòng hy vọng là họ sẽ trả nó cho Trọng, bất kể tình hình của tôi có thế nào chăng nữa. Hy vọng duy nhất của Trọng có lẽ là tìm cách giải cứu đứa con nhưng xác suất thành công là rất mong manh. Một khi các ông ấy đã dần dần đưa Trọng vào vòng khống chế thì chưa biết chừng họ sẽ lần ra được manh mối của kẻ đang nắm trong tay bằng chứng phạm tội của mình cũng nên và khi ấy số phận của Trọng coi như đã được định đoạt. Hẳn Trọng và Thuỷ sẽ thấu hiểu và thông cảm cho tôi khi tôi đã đi đến tận cùng của sự kiên nhẫn và không còn lựa chọn nào khác.)
Tuy nhiên, ngay tối khuya hôm 12/1, vợ tôi đang ngủ trên phòng thì đột nhiên bị mấy tên côn đồ dựng dậy. Chúng nhét giẻ vào mồm vợ tôi, bẻ ngoặt tay ra sau lưng. Vợ tôi sợ bị hãm hiếp nên đạp ngay vào bộ hạ một tên khiến hắn đau điếng, hắn liền đấm mạnh vào mặt vợ tôi rồi cầm một thanh sắt quất mạnh vào lưng, vào đầu khiến cô ấy choáng váng và ngất xỉu ngay lập tức. Cả Trinh, sau khi vợ tôi xin lỗi mấy ngày mới về nhà, và bà An khi nghe tiếng động trong phòng vợ tôi liền chạy sang cũng bị đánh. Bà An cố sức ôm mấy tên kia lại nên cũng đỡ cho vợ tôi được phần nào. Đồ đạc trong phòng vợ tôi bị đập phá tan tành, còn phòng Trinh và phòng bà An thì lại không bị gì. Trinh thì bị chém mấy nhát vào người, một lúc lâu sau vợ tôi tỉnh lại thì được bà An cho biết là Trinh đang phải vào viện băng bó. Đồ đạc trong nhà lại bị khoắng thêm lần nữa. Mấy chiếc thẻ tín dụng (Credit Card) mà lần trước vợ tôi bỏ trong chiếc túi xách và bà giúp việc mang vào viện lần này cũng bị chúng cuỗm nốt. (Sau này vợ tôi kể với tôi là có cảm giác như bọn này đã theo dõi và biết hết mọi ngóc ngách trong nhà, chúng còn biết là vợ tôi thường giấu chìa khoá trong ngực cùng những thứ quan trọng khác trong người? Tôi không loại trừ khả năng có bàn tay nội gián trong vụ này.)
Sau khi tỉnh lại, vợ tôi liền lết sang phòng Trinh lấy máy tính xách tay của Trinh nhắn tin qua mạng cho ông Dũng, khẩn thiết đề nghị ông cho về Việt Nam ngay. Một lúc sau thì trời mờ sáng, Trinh từ bệnh viện trở về và chạy ngay lên phòng hỏi xem vợ tôi có việc gì không, có cần phải đưa đi cấp cứu không. Vợ tôi quỳ xuống cầu xin Trinh cho cô ấy được trở về Việt Nam ngay. Trinh lúc đầu bảo vợ tôi ở lại ít nhất là để cho thuê người điều tra xong vụ này cái đã. Nhưng vợ tôi chẳng còn lòng dạ, hồn vía nào mà ở lại cái mảnh đất xa lạ, mưa dầm mưa dề, lạnh lẽo thấu xương, lại ở trong tình trạng bất an như thế. Sau đấy cô ấy mượn máy Trinh và liên lạc với ông Dũng. Ông biết được tình hình và nói là sẽ cho máy bay sang sớm. Vợ tôi vẫn dấu chuyện bị đánh đập và bị cướp ở nhà để tôi khỏi lo lắng.
Thực ra, sau khi bị đánh đập, bị cướp hết tài sản (mật mã tài khoản vợ tôi ghi vào một mảnh giấy và bỏ luôn trong túi xách) và xin trở về Việt Nam vợ tôi cũng vô cùng hoang mang, sợ rằng khi về Việt Nam với hai bàn tay trắng thì không biết liệu chồng có còn tin mình nữa hay không. Vì thế, cô ấy đã định bụng sẽ cắt đứt liên lạc với tôi, sống chết gì cũng ở lại London xem mọi chuyện đến đâu thì đến. Nhưng có lẽ hơn ai hết vợ tôi biết rõ là tình yêu thương mà tôi dành cho cô ấy lớn đến nhường nào, e rằng tôi sẽ khó lòng vượt qua nỗi đau đó. Tắt máy rồi lại ứa nước mắt mà bật máy lên một cách vô thức.
Ngày 15/1, ông Dũng cho máy bay riêng sang đón vợ tôi nhưng vợ tôi do bị đánh đau quá, mặt mũi sưng vù, lưng bị đau ê ẩm lết đi không nổi nên chưa thể ra sân bay được. Sau đó, khi đã tương đối hồi phục, ra được sân bay thì do giấy tờ hộ chiếu, visa của cô ấy bị mất hết nên không xuất cảnh được mà phải đợi ông Dũng cho người fax đề nghị sang người ta mới cho bay. Vợ con tôi phải nằm đợi ở khách sạn sân bay hai hôm nữa và đến ngày 26/1/2008 mới đặt chân xuống đến sân bay Nội Bài. Bà An thì vẫn ở lại London để trông nhà. Ông Dũng bố trí cho vợ con tôi nghỉ tại khách sạn Deawoo. Ở Hà Nội, ông Mạnh có đến gặp vợ tôi và cứ một hai hỏi là “con với Hùng lâu nay có liên lạc gì với nhau không? Về Việt Nam lần này có định tìm Hùng không?” Vợ tôi định đưa con về nhà thăm mẹ tôi nhưng ông Dũng có ý can rằng, “Bây giờ tự dưng đưa con về nhà thì khác nào lại xin xỏ để được người ta tha thứ cho.” Vợ tôi cũng có hỏi ý tôi về chuyện này nhưng tôi nói là khoan hãy về ngay, nhỡ có chuyện gì xẩy ra thì không hay. Thấy đầu và lưng vẫn còn đau quá vợ tôi mới vào bệnh viện Việt Pháp chụp phim nhưng rất may là họ cho biết không ảnh hưởng gì. Vợ tôi cũng có ý nán lại Hà Nội để chờ gặp Trọng lấy một ít tiền (vì Trọng vẫn nắm một số tài sản sẽ bàn giao cho tôi sau), nhưng ông Mạnh và ông Dũng cho biết là đã lâu không có tin tức gì của Trọng. Vợ tôi ngỏ ý mượn ông Dũng 100 triệu VNĐ, bảo “ít hôm nữa Thuỷ về Việt Nam con sẽ lấy tiền trả cho bố.” Nhưng ông Dũng nói là ông không có tiền vì đang phải tập trung trả nợ, ông chỉ đưa cho vợ tôi 10 triệu. Do mặt mũi vẫn còn sưng và con tôi lại bị sốt nên đến sáng 29/1 vợ tôi mới bay vào Huế và trở ra nhà ở Đông Hà. Chiều hôm đó, tôi cũng từ Nha Trang bắt ô tô về Đông Hà và sáng hôm sau thì đến nơi. Vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Vợ tôi vẫn chưa hoàn toàn hồi phục trí nhớ sau ca mổ, ngoài ra còn bị đánh vào đầu vào lưng nên thỉnh thoảng lại bị cơn đau hành hạ, đầu óc cứ nhớ nhớ quên quên. Lòng tôi xót xa vô hạn.
Vợ tôi về đến Đông Hà được một hôm thì ông Dũng cho biết Thuỷ cũng đã về Việt Nam. Hôm sau, Thuỷ liên lạc với vợ tôi và bàn chuyện sẽ đứng ra tố cáo để cứu chồng con. Vì đã lâu Trọng không liên lạc gì với Thuỷ và Trinh, không biết tình hình Trọng và con gái sống chết thế nào. Đến Tết Mậu Tý, vợ tôi đã dần dần bình phục, tuy thỉnh thoảng vẫn còn đau đầu. Ông Dũng và ông Mạnh có gọi điện hỏi thăm và đề nghị gửi tiền tiêu Tết nhưng vợ tôi cự tuyệt.
Thế là sau đúng 2 tháng 22 ngày, kể từ ngày 8/11/2007, vợ chồng tôi đã được gặp lại nhau. Tôi không rõ là ông Hải đã biết được chuyện vợ tôi về Việt Nam hay chưa nhưng chắc chắn không sớm thì muộn ông ta cũng sẽ biết việc vợ chồng tôi đã đoàn tụ. Điều may mắn và thần kỳ nhất là vợ con tôi vẫn trở về nguyên vẹn nhưng việc liệu tôi có thể quay trở lại với cuộc sống bình thường hay không thì chưa ai có thể trả lời được. Khi mà ông Mạnh, ông Hải hiểu rằng tôi vẫn một lòng tin tưởng và thương yêu vợ thì chưa thể biết được chuyện gì sẽ xẩy ra với tôi. Ngoài ra, tôi vẫn còn đau đáu một điều là hình ảnh của vợ tôi trong con mắt người thân và bạn bè của tôi vẫn rất xấu xa, hoen ố, chưa được minh oan, xác thực. Vì thế, khi bức thư này đến được tay quý vị thì hoặc là tôi đã bị thủ tiêu, hoặc là tôi đã chạy vào một đại sứ quán nào đó để tố cáo sự thật. Thậm chí, cho dù không được xem xét tị nạn chính trị, vợ chồng tôi vẫn đứng ra tố cáo và sẵn sàng chấp nhận mọi hậu quả, đơn giản là chúng tôi không còn lựa chọn nào khác.
Tôi đề nghị một Uỷ ban Điều tra độc lập sẽ được lập ra để điều tra cụ thể những nội dung của bức thư. Người ta không thể cứ tiếp tục nhắm mắt làm ngơ, sống mãi với sự giả dối, sống mãi với những ung nhọt đang ngày đêm gặm nhấm cơ thể mình và hơn hết, không ai được phép dung dưỡng cho những tội ác tày trời như đã kể trong câu chuyện. Tôi kêu gọi những ai biết được ít nhiều về câu chuyện này (trong đó có một số Việt Kiều từng có quan hệ kinh doanh với Vinatex và đã đến thăm vợ tôi ở New York và London) hãy mạnh dạn đứng ra minh xác và cung cấp thêm bằng chứng. Tôi cũng kêu gọi những đối tượng liên can hãy dũng cảm lên tiếng, đoái công chuộc tội, để lương tâm mình được thanh thản. Lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà khó thoát. Im lặng đôi khi cũng đồng nghĩa với tội ác.
Quảng Trị - Tết Mậu Tý 2008
Lê Anh Hùng
PHẦN BỔ SUNG III
Tôi đã lên kế hoạch là tối 4/1 AL sẽ ra Hà Nội rồi chạy vào một đại sứ quán nào đó để tố cáo. Tôi quyết định sẽ để vợ con ở lại Đông Hà, sau khi chạy vào được đại sứ quán thì sẽ đề nghị họ vào đón vợ con tôi ra. Đột nhiên, sáng mồng 4/1 AL (10/2/2008), vợ tôi nhận được tin nhắn của Trọng.[14] Thì ra Trọng vừa từ cõi chết trở về. Khoảng cuối tháng 12/2007, một trong ba tên vệ sỹ canh giữ con gái Trọng, người mà Trọng đã mua chuộc được, báo tin ra cho anh ta biết là con gái Trọng đang sốt mê man, thường mê sảng. Đứa bé bị giam giữ trong một ngôi nhà biệt lập nằm ở một vùng hoang vắng. Trước đấy, Trọng đã một lần cho người của mình tiếp cận hòng giải thoát con gái nhưng bất thành, hai người của Trọng bị bắn chết. Lần này Trọng như kẻ bị mất hết tỉnh táo. Anh ta tiến đến ngôi nhà một cách vô thức và ngay lập tức bị bọn vệ sỹ tóm lại. Sau khi bắt được Trọng, ông Hải cho chuyển địa điểm giam giữ bố con Trọng đến một nơi còn hoang vắng hơn (có lẽ là một vùng dân tộc ở Quảng Ninh). Trọng và con gái bị giam giữ trong một căn hầm tối tăm. Hàng ngày anh ta bị bọn vệ sỹ đánh đập tàn nhẫn, bắt phải khai ra chứng cứ của ông Hải để ở đâu. Nhưng Trọng quyết không khai. Anh ta sợ rằng sau khi ông Hải lấy được hết chứng cứ thì tính mạng của mình coi như cũng được định đoạt. Trọng chỉ khai (láo) là vợ tôi cũng nắm được một số chứng cứ do ăn trộm được của Thuỷ. (Đây tuy là điều Trọng ma mãnh nghĩ ra nhưng đúng là hồi ở London vợ tôi có mở vali của Thuỷ để lấy một số chứng cứ đem giấu, song sau đó bọn trộm đã cuỗm đi sạch.)
Đến ngày 28/12 AL (4/2/2008) thì con gái Trọng không chịu được nữa và chết trên tay Trọng. Bọn chúng cho phép Trọng chôn con gái mình. Anh ta nhân đó đánh nhau với hai tên vệ sỹ, cướp được súng và bắn chết hai tên này rồi chạy trốn. Trên đường đào tẩu, Trọng bị ngất xỉu do mệt và đói, đến khi tỉnh dậy thì thấy mình đang ở trong nhà một gia đình người dân tộc. Trốn chui trốn nhủi Trọng cũng lần mò về được đến Hải Phòng. Trọng gọi điện cho Thuỷ thì may thay Thuỷ vẫn dùng số sim cũ và đang ở Sài Gòn. Rạng sáng 4/1 AL (10/2/08) Trọng đi ô tô vào tới Sài Gòn gặp Thuỷ và ngay lập tức nhắn tin cho tôi. Trọng bảo nghe Thuỷ nói vợ chồng tôi đang định ra Hà Nội tố cáo, và chuyện đó là tuỳ tôi quyết định. Tôi vẫn dự định là tối hôm đó sẽ ra Hà Nội, tuy nhiên đến chiều thì vợ tôi cho biết là Trọng gọi điện và nói muốn hợp tác với tôi, đòi ông Hải phải trao một số tiền lớn, vợ chồng tôi lấy một nửa và anh ta một nửa, sau đó vợ chồng tôi sẽ ra nước ngoài trước. Ban đầu tôi vẫn ấm ức trong lòng vì chuyện Trọng đã để cho vợ tôi bị đánh đập và bị cướp ở London, còn thời gian tôi chạy trốn thì dường như anh ta cố tình không gửi tiền cho tôi, chỉ đạo Trinh không gửi tiền cho tôi và không cho vợ chồng tôi biết được bất kỳ manh mối gì về nơi ở của vợ tôi. Nghĩ vậy nhưng tôi vẫn còn tin là Trọng thật lòng với vợ chồng tôi, nếu tố cáo thì sẽ đặt Trọng vào tình thế nguy hiểm, hơn nữa chuyện tố cáo chưa biết sẽ đi đến đâu. Vì thế, tôi quyết định nghe theo kế hoạch của Trọng. Ông Hải lúc này đang vô cùng lo sợ nên răm rắp nghe theo yêu cầu của Trọng, hơn nữa lúc này cả Trọng và vợ tôi đều bịp ông Hải là vợ tôi cũng nắm chứng cứ trong tay (đang chôn ở một địa điểm bí mật) nên ông Hải rất sợ vợ chồng tôi manh động.
Lúc đầu Trọng giao hẹn đến ngày thứ Ba, 13/1 AL (19/2/2008), ông Hải phải bàn giao đủ 2 tỷ USD cho tôi và Trọng ở Sài Gòn. Sau đấy Trọng sẽ bàn giao toàn bộ chứng cứ, còn vợ chồng tôi thì sẽ ký vào giấy tờ do ông Hải soạn ra, với nội dung xác nhận những thông tin mà vợ tôi từng kể cho tôi và tôi đã gửi cho người nhà của mình (cho em trai tôi trước đây và cho ba tôi hôm 26/12 AL, tôi có in ra một bản và đưa về nhà cho ba tôi đọc) là không có thực, hoàn toàn do vợ tôi tưởng tượng ra. Vợ chồng tôi dự định sáng thứ Tư, 20/2/2008, sẽ vào Huế để bay vào Sài Gòn thì tối 19/2 ông Hải gọi điện cho vợ tôi, cầu xin vợ chồng tôi cho lui thêm mấy ngày nữa bởi ông đang xoay như chong chóng mà vẫn chưa đủ tiền. Tôi bảo vợ sáng mai gọi điện cho ông Hải nói là sẵn sàng gia hạn cho ông đến hết tuần luôn. Ông Hải rất cảm kích và gửi lời cám ơn tôi. Vợ tôi chợt nhớ đến cái nhà mà ngày xưa các ông xây tặng vợ chồng tôi và bỗng nhiên lại có ý thích về đấy ở. Cô ấy hỏi ông Hải thì được biết căn nhà đó ông đã chuộc lại, dự định sau này về già sẽ ở. Vợ tôi ngỏ ý thích ngôi nhà đó và nói muốn lấy ngôi nhà đó và trừ vào số tiền 2 tỷ USD. Ông Hải bảo để ông xem lại rồi trả lời sau. Sau đấy ông Hải cho biết là sẽ tặng riêng tôi ngôi nhà đó, không tính vào số tiền 2 tỷ USD kia. Ông tỏ ý khen tôi là người biết sống, có tấm lòng vị tha, rằng cuốn sách tôi dịch rất hay, trước kia ông chỉ mới đọc qua bản thảo nhưng giờ được in thành sách thì thấy đúng là một cuốn sách giá trị.[15] Trong thâm tâm, tôi cũng muốn bỏ qua tất cả để vợ chồng tôi có thể sống yên ổn ở Việt Nam. Lòng thù hận chỉ khiến con người ta tự làm khổ mình mà thôi. Hơn nữa, với số tiền kia chắc chắn tôi sẽ làm được nhiều việc có ích.
Chiều 16/1 AL (22/2), để thoát khỏi bầu không khí bức bối ở nhà bà ngoại vợ, chúng tôi đến nghỉ tại khách sạn Nhà Việt trên đường Hùng Vương mới. Chiều thứ Hai, 25/2, vợ chồng tôi trả khách sạn về nhà, chuẩn bị vào Huế để bay vào Sài Gòn thì đột nhiên được tin ông Hải đang đi công cán có việc hệ trọng của Nhà nước. Vợ tôi rất tức giận, ngỡ là các ông lại dở trò gì nữa chăng, liền gọi điện cho ông Dũng doạ tố cáo (lúc đó không gọi được cho ông Hải). Ông Dũng liên lạc với ông Hải, ông Hải sợ quá liền gọi điện lại cho vợ tôi báo là ông đi Cuba có việc cơ mật của Nhà nước do ông Mạnh giao cho, hiện ông đang ở nước ngoài nhưng 9h sáng hôm sau sẽ có mặt ở Hà Nội và hẹn gặp chúng tôi vào chiều tối ở Sài Gòn. Tuy nhiên, chiều hôm đó vợ tôi đi xem bói và được cho biết là phải hết tháng 1 AL vợ tôi mới đi an toàn, còn nếu đi trong tháng 1 thì sẽ dễ gặp tai biến gây nguy hiểm đến tính mạng. Vì thế, sáng 20/1 AL (26/2) vợ tôi gọi điện cho ông Dũng báo là gia hạn cho ông Hải đến hết tháng 1 AL. Vợ tôi cũng đề nghị ông Dũng gửi cho vợ chồng tôi và Trọng một ít tiền để tiêu tạm.
Ông Dũng nói ông không có nhiều tiền, sẽ gửi tạm cho Thuỷ 20 triệu VNĐ để Thuỷ mang ra Đông Hà cho vợ chồng tôi một nửa. Ngày 27/2, Thuỷ định bay ra Huế để thăm và đưa tiền cho vợ chồng tôi thì ông Hải gọi điện ra Hà Nội bảo là gửi mấy thứ cho vợ chồng tôi (máy tính xách tay, điện thoại, tiền…). Trọng nhân đó giao cho Thuỷ ra Hà Nội thu thập chứng cứ mà trước đấy Trọng gửi ở nhà bạn bè (khuôn mặt sau phẫu thuật của Trọng khác hẳn với trước nên hầu như không ai nhận ra, cho dù Trọng cố chứng minh). Chiều thứ Năm, 28/2, vợ chồng tôi về khách sạn Hữu Nghị trên đường Trần Hưng Đạo nghỉ. Chiều hôm đó Thuỷ cũng bay vào Sài Gòn giao chứng cứ cho Trọng và chiều hôm sau thì bay ra Huế. Tối thứ Sáu, Thuỷ ngủ lại ở Huế và đến gần trưa hôm sau Thuỷ gọi điện báo cho vợ tôi là bị ốm và bảo cô ấy đi taxi vào gặp. Mãi đến tối vợ tôi mới trở ra Đông Hà và về nhà nghỉ luôn. Sáng hôm sau cô ấy đến khách sạn Hữu Nghị và đưa cho tôi lá thư của Thuỷ.
Ông Dũng nói ông không có nhiều tiền, sẽ gửi tạm cho Thuỷ 20 triệu VNĐ để Thuỷ mang ra Đông Hà cho vợ chồng tôi một nửa. Ngày 27/2, Thuỷ định bay ra Huế để thăm và đưa tiền cho vợ chồng tôi thì ông Hải gọi điện ra Hà Nội bảo là gửi mấy thứ cho vợ chồng tôi (máy tính xách tay, điện thoại, tiền…). Trọng nhân đó giao cho Thuỷ ra Hà Nội thu thập chứng cứ mà trước đấy Trọng gửi ở nhà bạn bè (khuôn mặt sau phẫu thuật của Trọng khác hẳn với trước nên hầu như không ai nhận ra, cho dù Trọng cố chứng minh). Chiều thứ Năm, 28/2, vợ chồng tôi về khách sạn Hữu Nghị trên đường Trần Hưng Đạo nghỉ. Chiều hôm đó Thuỷ cũng bay vào Sài Gòn giao chứng cứ cho Trọng và chiều hôm sau thì bay ra Huế. Tối thứ Sáu, Thuỷ ngủ lại ở Huế và đến gần trưa hôm sau Thuỷ gọi điện báo cho vợ tôi là bị ốm và bảo cô ấy đi taxi vào gặp. Mãi đến tối vợ tôi mới trở ra Đông Hà và về nhà nghỉ luôn. Sáng hôm sau cô ấy đến khách sạn Hữu Nghị và đưa cho tôi lá thư của Thuỷ.
Gửi anh Hùng, chị Phương!
Trước là em xin lỗi chị Phương rất nhiều. Em đã định ra Đông Hà nhưng em sợ gặp chị em không dám nói sự thật chị à, nên em phải nói chị vào Huế gấp. Em rất xin lỗi chị, em chỉ định ra gặp anh Hùng và nói sự thật để anh Hùng giúp đỡ em nhưng lại nghe chị nói anh Hùng đi Đà Nẵng [thực ra tôi chưa muốn gặp Thuỷ nên mới bịa chuyện đi Đà Nẵng][16]. Chị Phương ơi hãy giúp em lần này đi. Số tiền ông Hải gửi cho chị coi như chị cho em mượn nhé. Em không dám đối mặt với chị vì chị là người thật thà và hay thương người. Chị hãy cho em mượn số tiền này để em đi thật xa, em muốn quên đi những đau khổ, em muốn làm lại cuộc đời. Em không thể ở bên Trọng được, Trọng đối xử với em thế nào chắc chị biết rồi. Em muốn đi thật xa, muốn quên đi tất cả, em hứa sau này sẽ trả số tiền đó cho anh chị. Em ngàn lần xin lỗi chị.
Anh Hùng, em rất mong anh hiểu và thông cảm cho em. Xin anh đừng nghĩ em xấu, bởi vì tình cảnh bắt buộc em làm như thế, anh hãy cho em mượn số tiền này, sau này em sẽ trả cho anh. Xin anh bảo với chị Phương khoan hãy nói gì với Trọng, coi như em vẫn đang ở quê với chị Phương. Khi anh chị nhận lá thư này chắc em đã đi xa lắm rồi.
Anh Hùng à, anh nói chị Phương điện cho ông Hải bảo ông gửi tiền theo đường chứng minh thư cho anh. Anh đừng nói gì với Trọng nghe, còn anh hãy tin em, mọi người không lừa dối anh đâu, em đã thu thập chứng cứ đầy đủ từ bạn Trọng, em đã đưa vào cho Trọng rồi. Em nói lần cuối cùng mong anh hiểu và thông cảm cho em.
Chị Phương, em gửi lại cho chị tiền [1 triệu] để trả tiền taxi nơi lễ tân khách sạn với lá thư thôi, còn tất cả xin chị hãy cho em mượn, em đi đây.
Chúc anh chị luôn hạnh phúc. Em là người phụ nữ bất hạnh, mong chị hiểu cho em.
Em gái,
Thuỷ
Vợ tôi kể, vào đến nơi nhận được lá thư cô ấy ngất xỉu luôn tại chỗ, may nhờ ông lái xe taxi quen đưa vào bệnh viện Huế cấp cứu.
Sáng Chủ nhật, 2/3/2008, vợ tôi gọi điện cho ông Hải thì mới biết là ông đưa cho Thuỷ 1 tỷ để gửi cho vợ tôi, định chỉ gửi một ít thôi nhưng Thuỷ đòi thêm, cả máy tính xách tay và điện thoại cho vợ chồng tôi nữa. Trọng báo cho vợ tôi là ngày thứ Bảy, 8/3, sẽ bay ra Huế rồi ra Đông Hà gặp vợ chồng tôi, sau đó cả ba sẽ vào Huế bay ra Hà Nội luôn (để tránh phải vào Sài Gòn nhằm giữ sức khoẻ cho con gái tôi). Chiều tối 8/3, vợ tôi mới liên lạc được với Trọng thì được biết máy bay bị trục trặc, Trọng xuống sân bay Đà Nẵng, bắt xe đò đi ra Huế thì gặp 2 ô tô khách đâm nhau, bị tắc đường cả dãy dài, tình hình chắc phải rạng sáng hôm sau mới ra tới Đông Hà (?). Tôi thấy dường như có điều gì đó không ổn, tôi kiểm tra lại thì được biết không có vụ tai nạn nghiêm trọng nào xẩy ra đoạn giữa Đà Nẵng - Huế đến mức ách tắc quốc lộ cả. Đến sáng hôm sau vợ tôi mới liên lạc được với Trọng. Anh ta bảo gửi lời xin lỗi tôi, đồng thời cho biết anh ta hiện đang rất chán nản vì đã dính HIV từ Thủy. (Thời gian ở London, Thuỷ chán nản nên đã quay lại cặp kè với một tay bồ cũ tên là Sơn. Sơn đã quay cảnh tình tự giữa anh ta và Thuỷ rồi tống tiền cô ta. Bao nhiêu tiền trong tài khoản của Trọng đều bị Thuỷ rút chuyển sang tài khoản của Sơn. Về sau Trọng biết được và rất tức giận.)
Trọng nói với vợ tôi là đang rất tuyệt vọng, không muốn gặp tôi nữa mà chờ ông Hải gửi tiền cho mình rồi đi thật xa để sống và chữa bệnh. Tôi bảo với vợ nói với Trọng là hãy ở lại Hà Nội (vợ tôi cũng có ý thế) để sau này vợ chồng tôi còn tiện bề chăm sóc. Tuy nhiên anh ta vẫn nhất quyết ra đi.
Tôi linh cảm là có chuyện gì đó không ổn, có ai đấy đang lừa mình. Tối 9/3, tôi bảo vợ gọi điện yêu cầu ông Hải sáng hôm sau phải gửi một ít tiền vào cho vợ chồng tôi (đến lúc đó tôi vẫn tin Trọng, còn những chuyện trục trặc tôi nghĩ không khéo lại do ông Hải bày ra lần nữa để lừa vợ chồng tôi. Tuy nhiên ông Hải vẫn nói với vợ tôi, “Bố là người chứ có phải là chó đâu mà lừa con mãi thế. Con muốn tin ai thì tuỳ con.” Tôi không còn đủ kiên nhẫn để chờ đợi nữa. Tối hôm đó tôi đi ô tô ra Hà Nội trước và chiều hôm sau về nghỉ ở khách sạn Hải Yến, 282 Nguyễn Trãi. Vợ tôi dự định chiều 11/3 sẽ đi tàu ra. Sáng 11/3, bà An (người giúp việc cho vợ tôi ở London, mới được ông Dũng bố trí cho về nhân dịp ông sang thăm Anh) gọi điện cho vợ tôi. Nghe vợ tôi nói con tôi bị ốm bà liền bắt xe vào Đông Hà. Sáng hôm sau 12/3, vợ tôi để con ở nhà cho bà An trông rồi vào Huế gặp Trọng, định sẽ bay ra Hà Nội trong buổi sáng bằng máy bay do ông Dũng và ông Hải bố trí. Tuy nhiên vào đến Huế thì kế hoạch máy bay bị trục trặc, do phải đưa đón một phái đoàn quan trọng, ông Hải nói phải tới 5h chiều mới có máy bay. Trọng bực tức thuê một chiếc ô tô ra Hà Nội luôn buổi trưa hôm đó.
22h30 vợ tôi mới về tới khách sạn tôi ở. Vợ tôi cho biết buổi chiều hôm đó, ông Dũng và ông Hải đã thông báo là tối hôm sau, 13/3, các ông sẽ bố trí gặp chúng tôi. Sáng hôm sau, vợ chồng tôi đi taxi lên Bờ Hồ dạo và đến khoảng 14h thì về lại khách sạn. Sau bao nhiêu truân chuyên, cực nhọc, mòn mỏi đợi chờ, tôi háo hức mong đến buổi tối để gặp các ông kia, khép lại một chương đầy đau thương trong cuộc đời hai vợ chồng. Khoảng 16h, vợ tôi bảo là tới chợ Ngã Tư Sở mua mấy thứ. Đến 18h30 tôi nhận được điện thoại của vợ. Tôi đang rất bực bội vì thấy vợ đi quá lâu, đang cất lời quát mắng thì cô ấy bảo tôi lấy tờ giấy trong túi quần ra đọc. Tôi vội chạy tới lấy tờ giấy ra đọc mà thấy rụng rời chân tay.
Gửi anh!
Em ngàn lần mong anh hãy tha thứ cho em, anh hãy quên em đi. Nếu anh nhận được lá thư này thì em đã đi xa lắm rồi.
Xin anh hãy tha thứ cho em và anh đừng tố cáo. Mọi chuyện không như anh nghĩ đâu. Nếu anh tố cáo anh sẽ đi ở tù và em cũng thế. Tội của em không rửa sạch được đâu anh ơi. Em đã đau khổ quá nhiều rồi, em muốn đi thật xa để quên đi tất cả. Anh hãy cố gắng sống và làm lại cuộc đời anh nhé. Mọi người nghĩ là anh vô tội khi có một cô vợ như em. Em không giải thích nhiều, chỉ mong anh cố gắng sống và làm lại cuộc đời. Em nói thật, anh đừng có tố cáo, anh hãy nghĩ mọi chuyện đều do em sắp xếp cả.
Em sẽ bế con đi thật xa. Mọi người trong nhà em vô tội, anh hãy tha cho họ. Khi nào con lớn em sẽ để con tự tìm về với anh. Em sẽ đưa con vào miền Nam sinh sống. Xin hãy tha thứ cho em!
Em chào anh!
Tôi hốt hoảng gọi lại ngay cho vợ thì được biết cô ấy đã bị Trọng và ông Hải lừa dính vào buôn bán ma tuý, và hơn thế còn liên quan đến một vụ án mạng. Trọng bây giờ đã lấy hết tiền ở ông Hải và đi xa. Nếu vợ chồng tôi mà tố cáo thì chứng cứ mà anh ta ghi lại sẽ buộc tội vợ tôi, anh ta đã trao tất cả cho ông Hải. Tôi cầu xin cô ấy hãy quay về với tôi, tôi không thể sống thiếu em được. Tôi biết là em bị người ta lừa chứ em không có tội tình gì cả. “Anh sẵn sàng tha thứ tất cả cho em. Hãy quay lại với anh rồi mình đi đâu thật xa và làm lại cuộc đời.”
Vợ tôi lúc ấy đã tới gần Phủ Lý. Thấy tôi khóc lóc dữ quá cô ấy đau đớn như bị cắt từng khúc ruột. Vợ tôi xuống ô tô và bắt xe ôm quay lại Hà Nội. Về tới nơi, cô ấy quỳ xuống xin lỗi tôi vì đã giấu tôi một sự thật tày trời như thế. Thì ra, vợ tôi đã bị lừa tham gia vào đường dây ma tuý của ông Hải và Trọng. Thấy vợ tôi thật thà, cả tin, Trọng đã lừa vợ tôi tham gia vào hoạt động buôn bán ma tuý của mình rồi dần dà khống chế cô ấy. Không chỉ có thế, vì muốn chiếm được trái tim vợ tôi và để dễ bề khống chế cô ấy, anh ta còn giăng bẫy để vợ tôi dính vào một vụ án mạng rồi ghi lại chứng cứ. Tuy nhiên, cho dù thế thì anh ta cũng không bao giờ ép buộc được cô ấy bỏ tôi theo anh ta hay phản bội lại tôi. Trên đường từ Huế ra Hà Nội ngày 12/3, Trọng đã lộ rõ bộ mặt thật của mình. Anh ta nói với vợ tôi là không hiểu sao bị lừa đến hết lần này lần khác mà tôi vẫn cứ tin vợ. Làm gì có chuyện Thuỷ lây bệnh cho anh ta cũng như chuyện tai nạn gây tắc đường ở Đà Nẵng hôm 8/3. Thời gian ở Sài Gòn, anh ta đã bí mật bay ra Hà Nội nhiều lần để bán các tài sản mà trước đây các ông kia bàn giao cho vợ tôi nhưng cô ấy đưa cho Trọng giữ trước khi lên đường sang Paris…
Biết không thể lung lạc được trái tim của vợ tôi, anh ta nói toạc ra là lần này anh ta sẽ lấy hết tiền ở ông Hải rồi đi luôn, toàn bộ chứng cứ sẽ giao cho ông Hải, trong đó có cả bằng chứng phạm tội của vợ tôi. Ngoài ra Trọng còn có cuốn băng dàn dựng cảnh vợ tôi ân ái với anh ta, tất nhiên là anh ta ghép hình, anh ta doạ sẽ tung lên mạng nếu cô ấy đứng ra tố cáo (trước đấy Thuỷ có cho vợ tôi biết về đoạn băng này, nhưng cũng nói thêm là người trong phim không giống vợ tôi, bởi lẽ nếu đúng là cô ấy thì Trọng chắc chắn sẽ chẳng ngần ngại gì mà không gửi cho tôi). Vợ tôi hết lời cầu xin nhưng anh ta vẫn không hề lay chuyển. Khi xe đi đến Kỳ Anh, anh ta bảo vợ tôi xuống xe, “Quay về mà làm lại cuộc đời đi. Ra Hà Nội lần này thì thằng Hùng sẽ không còn tin cô nữa đâu.” Vợ tôi nói, “Không, em phải ra. Chồng em đang nhịn đói chờ em ở ngoài kia.” Vợ tôi nói với Trọng là “nếu ngày mai đến 3h chiều mà anh không gọi điện cho em thì em sẽ ôm con bỏ đi thật xa.”
Biết không thể lung lạc được trái tim của vợ tôi, anh ta nói toạc ra là lần này anh ta sẽ lấy hết tiền ở ông Hải rồi đi luôn, toàn bộ chứng cứ sẽ giao cho ông Hải, trong đó có cả bằng chứng phạm tội của vợ tôi. Ngoài ra Trọng còn có cuốn băng dàn dựng cảnh vợ tôi ân ái với anh ta, tất nhiên là anh ta ghép hình, anh ta doạ sẽ tung lên mạng nếu cô ấy đứng ra tố cáo (trước đấy Thuỷ có cho vợ tôi biết về đoạn băng này, nhưng cũng nói thêm là người trong phim không giống vợ tôi, bởi lẽ nếu đúng là cô ấy thì Trọng chắc chắn sẽ chẳng ngần ngại gì mà không gửi cho tôi). Vợ tôi hết lời cầu xin nhưng anh ta vẫn không hề lay chuyển. Khi xe đi đến Kỳ Anh, anh ta bảo vợ tôi xuống xe, “Quay về mà làm lại cuộc đời đi. Ra Hà Nội lần này thì thằng Hùng sẽ không còn tin cô nữa đâu.” Vợ tôi nói, “Không, em phải ra. Chồng em đang nhịn đói chờ em ở ngoài kia.” Vợ tôi nói với Trọng là “nếu ngày mai đến 3h chiều mà anh không gọi điện cho em thì em sẽ ôm con bỏ đi thật xa.”
Thì ra Trọng đã lừa dối vợ chồng tôi từ lâu mà tôi không hề hay biết. Thời gian tôi đang ở khách sạn Nam Đông, vợ tôi ra Hà Nội (rồi sang Paris trước), vợ tôi có gọi điện cho tôi biết là anh ta nói với cô ấy, “Các ông ấy mà giết Hùng thì anh sẽ giết chết họ rồi đi tù!” Hay chuyện anh ta bảo gửi tiền cho tôi qua một người bạn chạy xe đường dài qua cửa khẩu Lao Bảo (!). Lần đó tôi đã thấy chột dạ nên mới lặng lẽ rời khỏi khách sạn Nam Đông và vào Đà Nẵng ngày 12/11/2007 mà chỉ cho vợ biết là tôi vẫn đang ở một nơi khác tại Đông Hà, bởi vợ tôi rất tin tưởng Trọng[17]. Thực ra, tôi đã bố trí đâu vào đấy để lỡ nếu mình có bị thủ tiêu thì bức thư tố cáo sẽ được tung lên mạng bất cứ lúc nào. Thời gian sau này Trọng đã cố tình không gửi hộ chiếu và tiền cho tôi - anh ta bảo vợ tôi cầm hộ chiếu của tôi ra nước ngoài rồi gửi về sau (!) - không cho vợ tôi biết địa chỉ nơi ở để báo cho tôi…
Trong khi đó tôi cứ sống lang thang vất vưởng hết Sài Gòn, Đà Lạt lại Nha Trang, bụng bảo dạ là phải cố sức chịu đựng kẻo nếu mình mà manh động thì sẽ ảnh hưởng đến tính mạng con gái Trọng, bất chấp tình cảnh vợ tôi lúc đó đang cần tôi hơn lúc nào hết. Thế mà anh ta lúc nào cũng nhắn tin cho tôi kiểu như: “Tôi thương anh lắm…”, “Tôi không phụ vợ chồng anh đâu…”, “Bố con tôi sẵn sàng hy sinh để vợ chồng anh sớm được đoàn tụ…” Anh ta còn bịa chuyện là bị các ông ấy giám sát chặt chẽ này nọ. Dĩ nhiên là tôi có sự cẩn trọng cần thiết của mình (tôi liên lạc với vợ qua một số điện thoại duy nhất và liên lạc với bạn bè qua số khác hoặc qua mạng), nhưng đúng là tôi vẫn không thể ngờ anh ta lại đốn mạt và hèn hạ đến thế.
Trong khi đó tôi cứ sống lang thang vất vưởng hết Sài Gòn, Đà Lạt lại Nha Trang, bụng bảo dạ là phải cố sức chịu đựng kẻo nếu mình mà manh động thì sẽ ảnh hưởng đến tính mạng con gái Trọng, bất chấp tình cảnh vợ tôi lúc đó đang cần tôi hơn lúc nào hết. Thế mà anh ta lúc nào cũng nhắn tin cho tôi kiểu như: “Tôi thương anh lắm…”, “Tôi không phụ vợ chồng anh đâu…”, “Bố con tôi sẵn sàng hy sinh để vợ chồng anh sớm được đoàn tụ…” Anh ta còn bịa chuyện là bị các ông ấy giám sát chặt chẽ này nọ. Dĩ nhiên là tôi có sự cẩn trọng cần thiết của mình (tôi liên lạc với vợ qua một số điện thoại duy nhất và liên lạc với bạn bè qua số khác hoặc qua mạng), nhưng đúng là tôi vẫn không thể ngờ anh ta lại đốn mạt và hèn hạ đến thế.
Lần vợ tôi mổ ở Mỹ cũng không phải là do Trọng lo liệu mà chủ yếu là nhờ ba ông kia, đặc biệt là ông Hải, người có nhiều mối quan hệ. Sau này Thuỷ mới cho vợ tôi biết là chính ông Hải đã có mặt trong suốt ca mổ của cô ấy, tận tay trao từng phong bì bồi dưỡng cho các bác sỹ. Dù sao, đó cũng là điều tối thiểu mà họ phải làm cho một nạn nhân đang trong cơn hấp hối của họ. Trọng (và cả Thuỷ lúc đó) không cho vợ chồng tôi biết chuyện ấy hòng khiến vợ chồng tôi càng nghĩ xấu về các ông kia và càng thêm tin tưởng anh ta. Riêng vợ tôi thì mãi về sau mới dần dần nhớ ra.
Thuỷ gọi điện báo cho vợ tôi biết là Sơn (bồ của Thuỷ) đã bị Trọng giết. Bản thân Thuỷ phải bỏ đi ngày 1/3 cũng là vì sợ bị Trọng giết. Thuỷ bảo, “Em sống với Trọng lâu rồi nên hiểu được con người Trọng.” Thuỷ cũng cho biết là Loan (đã kể ở đầu câu chuyện) và một nhân viên Việt Tiến nữa tên là Nhung trước cùng làm ở Tràng Tiền Plaza cũng đã bị Trọng và ông Hải ra tay giết để bịt đầu mối. Còn vụ vợ tôi bị đánh và cướp ở London chính là do Trinh dàn dựng trước khi vợ tôi về lại Việt Nam mặc dù trước đó cô ấy đã quyết định để lại cho anh ta và bà An một thẻ tín dụng. Cũng chính anh ta đã theo dõi tin nhắn qua Yahoo Messenger của vợ chồng tôi (anh ta đã tạo nick cho vợ tôi), vì nhiều lần tôi nhắn tin offline qua mạng mà cô ấy không nhận được.
Tôi vô cùng xót thương cho vợ. Cô ấy hết bị người này lừa lại đến người khác lừa, mà toàn là những kẻ nhân danh những thứ tình cảm thiêng liêng và cao cả nhất dành cho em. Tối hôm 13/3 ấy, tôi bảo vợ sáng hôm sau sẽ chạy vào một đại sứ quán nào đó để tố cáo. Vợ tôi đồng ý như thế song lại nói là phải về Đông Hà đưa con ra đã. “Có con bên cạnh em sẽ có thêm sức mạnh.” Suốt mấy hôm, vợ tôi nhớ con đến cồn cào ruột gan. Tôi suy nghĩ rất lung. Sau cùng quyết định là để vợ về quê đưa con ra Hà Nội, rồi sẽ tuỳ vào thái độ xử sự của mấy ông kia thế nào mà định liệu. Vợ chồng tôi đã quá mệt mỏi rồi, tôi không muốn vợ tôi phải chịu thêm một nỗi đau nào nữa.
Bệnh tình của cô ấy giờ như ngọn đèn trước gió, có thể bị tai biến bất cứ lúc nào, nhất là những khi bị sốc. Tuy nhiên, nếu như ông Mạnh, ông Dũng, ông Hải mà bỏ rơi vợ chồng tôi trong cơn khốn khó này thì chúng tôi quyết không thể tha thứ cho họ. Chúng tôi đã bị dồn tới chân tường và lần này thì không gì có thể biện hộ cho họ được nữa. Họ đã gây ra bao đau đớn cho vợ chồng tôi, đặc biệt là vợ tôi, suốt thời gian qua.
Chính ông Hải đã đưa vợ tôi vào vòng tội lỗi. Ông Mạnh thì thản nhiên nhận những đồng tiền vấy máu từ một gia đình trùm xã hội đen đang tìm cách giết người. Họ đã bất chấp tất cả để buôn lậu vũ khí, buôn bán ma tuý, giết người, tham nhũng. Ông Mạnh, ông Dũng đã dựng một trùm ma tuý kiêm sát thủ máu lạnh lên làm Phó Thủ tướng và đang lăm le leo lên lãnh đạo đất nước trong nay mai. Và họ, hơn ai hết, chính là những bộ mặt đại diện cho cái chế độ phi nhân đã đẩy bao người dân vô tội vào vòng oan khuất, gây ra bao tang thương và bất công cho đất nước này, trong khi vẫn không ngớt rao giảng về những mớ “đạo đức cách mạng” hay mới đây nhất là cái gọi là “tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,” ngang nhiên chà đạp lên khát vọng tự do, dân chủ của nhân dân, bất chấp những lợi ích bức thiết của dân tộc.
Bệnh tình của cô ấy giờ như ngọn đèn trước gió, có thể bị tai biến bất cứ lúc nào, nhất là những khi bị sốc. Tuy nhiên, nếu như ông Mạnh, ông Dũng, ông Hải mà bỏ rơi vợ chồng tôi trong cơn khốn khó này thì chúng tôi quyết không thể tha thứ cho họ. Chúng tôi đã bị dồn tới chân tường và lần này thì không gì có thể biện hộ cho họ được nữa. Họ đã gây ra bao đau đớn cho vợ chồng tôi, đặc biệt là vợ tôi, suốt thời gian qua.
Chính ông Hải đã đưa vợ tôi vào vòng tội lỗi. Ông Mạnh thì thản nhiên nhận những đồng tiền vấy máu từ một gia đình trùm xã hội đen đang tìm cách giết người. Họ đã bất chấp tất cả để buôn lậu vũ khí, buôn bán ma tuý, giết người, tham nhũng. Ông Mạnh, ông Dũng đã dựng một trùm ma tuý kiêm sát thủ máu lạnh lên làm Phó Thủ tướng và đang lăm le leo lên lãnh đạo đất nước trong nay mai. Và họ, hơn ai hết, chính là những bộ mặt đại diện cho cái chế độ phi nhân đã đẩy bao người dân vô tội vào vòng oan khuất, gây ra bao tang thương và bất công cho đất nước này, trong khi vẫn không ngớt rao giảng về những mớ “đạo đức cách mạng” hay mới đây nhất là cái gọi là “tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,” ngang nhiên chà đạp lên khát vọng tự do, dân chủ của nhân dân, bất chấp những lợi ích bức thiết của dân tộc.
Việt Nam đã hội nhập vào nền kinh tế thế giới, con thuyền đất nước đã đi ra biển lớn, đấy là xu thế không thể đảo ngược. Tất cả những gì cần làm ngay bây giờ là trở về với những giá trị nền tảng khả dĩ đem đến cho chúng ta niềm tin đúng đắn và đặt chúng ta vào con đường đúng đắn trong bối cảnh thế giới không ngừng biến động với vô vàn thách thức và bất trắc khôn lường. Đó chính là những giá trị thực sự về tự do, dân chủ và nhân văn, về một thể chế pháp trị với tinh thần “thượng tôn pháp luật.” Xin đừng đem những đồng tiền thuế xương máu của nhân dân chi tiêu vô tội vạ cho những trò hề như “học tập và làm theo tấm gương...” hay nuôi dưỡng bộ máy ăn bám khổng lồ của Đảng, mà hãy san sẻ cho những người dân vô tội đang phải chịu những cái chết thương tâm vì đói, vì rét. Xin đừng loay hoay giữa biển cả mù khơi tìm kiếm thiên đường cộng sản theo cái kiểu “con đường đi lên CNXH ngày một sáng tỏ hơn,” đem sinh mệnh 84 triệu đồng bào cùng tương lai đất nước tiếp tục làm vật thí nghiệm cho cái chủ thuyết không tưởng đã bị vứt vào sọt rác ngay trên chính quê hương của nó.
Hà Nội - 4/2008
Lê Anh Hùng
PHẦN BỔ SUNG IV
Suốt đêm 13/3 đó, tôi hầu như không chợp mắt được. Sáng hôm sau, tôi đưa vợ ra bến xe Giáp Bát bắt xe về Quảng Trị để đưa con ra. Về tới Đông Hà, vợ tôi bị mệt nên mãi tối thứ Hai tuần sau mới lên đường ra Hà Nội. Sáng 18/3, hai mẹ con về đến khách sạn Hải Yến, nơi tôi đang trú chân. Các ông kia (chủ yếu là ông Dũng và ông Hải, còn ông Mạnh thì gần như lặn mất tăm) lại bắt đầu điệp khúc hứa (hão) là sẽ sớm thu xếp cho vợ chồng tôi. Họ cứ hứa hẹn hết lần này đến lần khác, hòng khiến tôi hết kiên nhẫn và cạn kiệt niềm tin với vợ. Đồng thời họ cũng không quên doạ dẫm là nếu vợ tôi đứng ra tố cáo thì chứng cớ phạm tội của vợ tôi mà Trọng đã trao cho ông Hải sẽ buộc tội cô ấy, còn bằng chứng phạm tội của họ thì đã bị tiêu huỷ, trong khi vợ chồng tôi lại không có bằng chứng nào liên quan đến họ cả. Quá chán nản và căng thẳng, thỉnh thoảng lại bị cơn đau đầu hành hạ, ngày 27/3 vợ tôi xin phép tôi đưa con về quê mấy hôm trong khi đợi các ông kia thu xếp rồi sẽ ra sau, còn tôi vẫn một mình ở lại khách sạn Hải Yến chờ.
Đến ngày 2/4/2008, vợ tôi nhắn tin offline cho tôi là cô ấy đã đưa con đi xa rồi, mong tôi hãy quên đi tất cả mà trở về làm lại cuộc đời. Toàn bộ câu chuyện là do cô ấy tự bày ra thôi, nếu tôi mà tố cáo thì cả tôi và cả cô ấy đều phải đi tù. Tôi cảm thấy mọi thứ dường như sụp đổ trước mắt mình, mất vợ mất con, mất hết danh dự, mất cả niềm tin vào cuộc sống, tôi chẳng còn gì trên đời này cả. Những điều vợ tôi nói khiến niềm tin bấy lâu trong tôi thực sự bị lung lay, vì tôi chẳng có lấy một bằng cớ xác thực nào về sự liên đới của ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải trong câu chuyện. Dù vậy, trong những giờ phút tuyệt vọng nhất tôi vẫn hiểu rằng điều quan trọng hơn hết là mình phải tin vào chính bản thân mình. Thực ra, trước đây tôi đã có thể tự mình kiểm chứng sự hiện diện của các ông này trong câu chuyện, chẳng hạn đơn giản là bằng cách nghe giọng nói phát ra từ điện thoại khi vợ tôi liên lạc qua điện thoại với họ. Nhưng tôi lại không bao giờ có thể hạ mình để làm điều đó.
Tôi cũng chẳng quá háo hức hay vồ vập tới mức có thể đưa ra đề nghị được tiếp chuyện điện thoại với họ. Vợ tôi sinh ra đã thiếu tình cảm của người bố, nay họ đem lại cho cô ấy thứ tình cảm thiêng liêng và ấm áp đó. Tôi rất trân trọng điều ấy cũng như tôn trọng sự riêng tư trong tình cảm bố con giữa họ. Niềm tin mà tôi dành cho vợ là không gì lay chuyển nổi và tôi từng tự nhủ giả như cô ấy có muốn lừa dối tôi thì cũng không lừa nổi. Tôi rà soát và đánh giá lại toàn bộ diễn tiến của câu chuyện. Tôi thấy những gì diễn ra mới đây đều theo một kịch bản đã quá quen thuộc, hẳn các ông này lại dở cái bài cũ mèm ấy ra với tôi chứ chẳng có gì khác. Hơn thế, những nội dung mà vợ tôi kể cho tôi trước đây là cả một câu chuyện logic, bây giờ muốn phủ nhận lại thì vợ tôi phải đưa ra những tình tiết mới để chứng minh rằng diễn biến trong câu chuyện là không có thật mà do cô ấy dựng lên. Song điều này rõ ràng là vượt quá khả năng của vợ tôi, những tình tiết mới mà cô ấy đưa ra phần lớn đều ngớ ngẩn, không đủ sức thuyết phục tôi rằng từ trước tới nay cô ấy đã lừa dối tôi. Ngay cả với một nhà văn siêu tưởng thì việc hư cấu nên cả một câu chuyện như thế hẳn cũng đã là quá sức huống hồ với một người mà trình độ còn chưa qua lớp 7 như em. Đặc biệt, tình yêu mà em dành cho tôi thì không thể nào đánh lừa trái tim tôi được, đấy chính là điều mà tôi tin chắc nhất trên cõi đời này. Sau khi cân nhắc mọi nhẽ, tôi quyết định đi một nước cờ táo bạo.
Tôi cũng chẳng quá háo hức hay vồ vập tới mức có thể đưa ra đề nghị được tiếp chuyện điện thoại với họ. Vợ tôi sinh ra đã thiếu tình cảm của người bố, nay họ đem lại cho cô ấy thứ tình cảm thiêng liêng và ấm áp đó. Tôi rất trân trọng điều ấy cũng như tôn trọng sự riêng tư trong tình cảm bố con giữa họ. Niềm tin mà tôi dành cho vợ là không gì lay chuyển nổi và tôi từng tự nhủ giả như cô ấy có muốn lừa dối tôi thì cũng không lừa nổi. Tôi rà soát và đánh giá lại toàn bộ diễn tiến của câu chuyện. Tôi thấy những gì diễn ra mới đây đều theo một kịch bản đã quá quen thuộc, hẳn các ông này lại dở cái bài cũ mèm ấy ra với tôi chứ chẳng có gì khác. Hơn thế, những nội dung mà vợ tôi kể cho tôi trước đây là cả một câu chuyện logic, bây giờ muốn phủ nhận lại thì vợ tôi phải đưa ra những tình tiết mới để chứng minh rằng diễn biến trong câu chuyện là không có thật mà do cô ấy dựng lên. Song điều này rõ ràng là vượt quá khả năng của vợ tôi, những tình tiết mới mà cô ấy đưa ra phần lớn đều ngớ ngẩn, không đủ sức thuyết phục tôi rằng từ trước tới nay cô ấy đã lừa dối tôi. Ngay cả với một nhà văn siêu tưởng thì việc hư cấu nên cả một câu chuyện như thế hẳn cũng đã là quá sức huống hồ với một người mà trình độ còn chưa qua lớp 7 như em. Đặc biệt, tình yêu mà em dành cho tôi thì không thể nào đánh lừa trái tim tôi được, đấy chính là điều mà tôi tin chắc nhất trên cõi đời này. Sau khi cân nhắc mọi nhẽ, tôi quyết định đi một nước cờ táo bạo.
Tôi biết ông Dũng có người con gái tên là Nguyễn Thanh Phượng đang làm Chủ tịch HĐQT Quỹ Đầu tư Bản Việt (Viet Capital) ở Sài Gòn. Sáng 4/4/2008, tôi gọi điện đến Bản Việt xin gặp Chủ tịch HĐQT nhưng được thông báo là chị Phượng đang đi họp và người ta nối máy cho tôi gặp Diệp, thư ký của Phượng. Tôi nói với Diệp là tôi có việc vô cùng quan trọng và muốn trao đổi qua email với Phượng, đề nghị Diệp cho tôi biết địa chỉ email của Phượng. Tuy nhiên, dù tôi nói hết lời Diệp vẫn không đồng ý mà chỉ cho tôi địa chỉ email của mình và nói là có gì tôi cứ gửi vào đấy rồi cô ấy sẽ gửi cho Phượng. Tôi dặn Diệp là nếu nhận được thư thì đừng nên đọc mà hãy gửi ngay cho Phượng.
Gui Diep,
De nghi Diep chuyen ngay email nay cho chi Phuong, de chi Phuong gui ngay cho ong Dung.
De nghi cac ong lien lac voi anh ngay trong ngay hom nay, qua dia chi email nay.
Cam on em,
Le Anh Hung
Tôi có đính kèm Thư Tố Cáo (nội dung từ trang 3 cho đến trước PHẦN BỔ SUNG IV này) để gửi cho Diệp. Đến 3h44 chiều, tôi lại gửi email tiếp cho Diệp:
Diep than men,
Nho em forword toi chi Phuong la neu ong Dung (va ong Manh, ong Hai) ma khong tra loi anh thi sang mai anh se tung thu to cao len mang. Anh da di den tan cung cua su kien nhan va suc chiu dung. Anh khong doa suong hay noi dua dau. Anh khong con gi de mat nua.
Cam on em,
LAH
Sáng hôm sau, tôi vẫn không nhận được hồi âm gì, từ phía Diệp hay từ phía mấy ông kia. Tôi nghĩ có lẽ là thời hạn mà mình đưa ra quá gấp nên các ông ấy chưa kịp nhận và đọc cả bức thư dài kia cũng nên. Hơn nữa, biết đâu họ lại chả đang lo sợ là nếu phản hồi ngay thì chẳng khác nào “lạy ông tôi ở bụi này” và tôi có thể nhân đó mà tung luôn bức thư lên mạng thì khốn. Vì thế, 3h42 chiều hôm sau, tôi gửi tiếp email cho Diệp:
Diep than men,
Nho Diep forward thu nay cho chi Phuong de chi Phuong cho cac ong ay biet rang, anh hien gio da mat vo mat con, mat het danh du. Anh khong con gi de mat them nua.
Vo anh vi phai chiu qua nhieu dau don, nhieu su lua doi, hon nua bi day vo vi toi loi cua minh, cam thay khong xung dang voi anh nua nen da bo anh ma di. Anh muon lam lai cuoc doi voi vo minh o mot noi nao do thi khong the khoi dau voi hai ban tay trang.
Neu tu gio cho den 11h sang thu Hai, ngay 7/4, ho khong tra loi anh thi dung 11h ngay 7/4 anh se gui Thu To Cao nay den dia chi toasoanwebcp@chinhphu.vn, sau do neu ho van khong chiu tra loi thi den 2h chieu 7/4 anh se chinh thuc tung thu len mang. Anh chap nhan moi hau qua xay ra voi minh.
Cam on em rat nhieu,
LAH
Tối hôm đó, tôi quyết định vào Quảng Trị để gặp vợ. Vợ tôi giờ đã là một phần máu thịt của tôi và dù có thế nào đi nữa tôi cũng không bao giờ bỏ rơi vợ con mình được. Cô ấy đã ôm con bỏ nhà đi từ mấy hôm trước và vào tá túc ở nhà bố của người bạn từ hồi còn làm ở nhà hàng Lạc Dương tên là Hồng. Ngôi nhà của bố Hồng (đã mất) ở một vùng miền núi, không có điện, cách Huế khoảng 20km và phải đi đò qua một con sông. Hồng ở đấy với đứa con gái, còn mẹ thì hình như đã đi lấy chồng khác. Hàng ngày, Hồng đưa con đi theo vào thành phố, gửi con cho nhà trẻ rồi đi làm. Tối lại đến đón con về. Vợ tôi định bụng sẽ ở đấy mấy hôm cho tĩnh tâm lại rồi sẽ vào Huế thuê nhà trọ và tìm việc làm để nuôi con. Kế hoạch của tôi là vào thuyết phục vợ dũng cảm đứng ra tố cáo, không thể để họ làm cho điêu đứng rồi bỏ mặc chúng tôi trong cảnh dở sống dở chết thế này được.
Sáng hôm sau, ngày 6/4, tôi vào tới thị xã Quảng Trị rồi đến nhà bà mợ mà tháng 6/2007 vợ chồng tôi đã từng vào ẩn náu một thời gian. Gần trưa thì vợ con tôi từ Huế ra. Tôi tìm cách thuyết phục vợ nhưng cô ấy vẫn lần lữa chưa quyết, và còn lấp lửng về sự hiện diện của ba ông kia trong câu chuyện. Tôi nói với vợ là trong mọi trường hợp tôi không bao giờ bỏ rơi cô ấy cả. Nhưng vợ tôi nói cô ấy đã quá mệt mỏi rồi, muốn quên đi tất cả, không muốn tiếp tục làm khổ tôi nữa. Tôi quyết định đi chơi với vợ vài hôm cho khuây khoả đồng thời để xem kết quả từ email mà tôi gửi cho con gái ông Dũng ra sao (tôi không cho vợ biết chuyện mình đã gửi email cho con gái ông Dũng). Chiều hôm đó vợ chồng tôi bắt xe đi vào nhà Diệp bạn vợ tôi (người đã được nhắc đến trong phần đầu câu chuyện, thời điểm vợ chồng tôi bỏ nhà chạy ra ẩn náu ở nhà hàng Nam Hải, Hà Nội). Nhà Diệp cách ngã ba An Lỗ (Thừa Thiên - Huế) khoảng 3,5km về phía biển. Thời gian này Diệp đang làm ở Sài Gòn. Vợ chồng tôi tới nhà Diệp khi trời đã sẩm tối.
Sáng hôm sau tôi bảo vợ gọi điện về nhà cậu Tuấn (con trưởng bà ngoại) xem tình hình thế nào. Suốt mấy hôm kể từ khi ôm con bỏ nhà đi vợ tôi không hề liên lạc gì về nhà. Tôi muốn vợ tôi gọi điện sớm trước thời hạn 11h mà tôi đã đặt ra cho mấy ông kia. Vợ tôi gọi điện về nhà thì được người nhà cho biết suốt mấy hôm liền có ông Dũng nào đó cứ gọi điện liên tục. Ông dặn là nếu vợ tôi gọi điện về nhà thì nói cô ấy gọi điện ngay cho ông, có việc gấp và quan trọng lắm. Tôi bảo vợ gọi điện cho ông Dũng xem sao, đồng thời dặn vợ nói với ông ấy là tôi đã bỏ đi và hiện không biết đang ở đâu, đã lâu không liên lạc được. Khoảng 10h sáng, vợ tôi gọi điện cho ông Dũng. Ông nói, mấy hôm vừa rồi ông vô cùng nóng ruột và lo lắng vì không biết vợ tôi bỏ đi đâu biệt tăm. “Mấy ông kia không khéo lại già néo đứt dây, thằng Hùng mà nổi điên lên rồi tố cáo thì chết cả nút. Con hãy tìm cách liên lạc với Hùng ngay đi, xem nó đang ở đâu và bảo nó về, đừng đi lang thang nữa, rồi hỏi nó ra điều kiện gì để bố nói lại với hai ông kia. Nếu họ mà không đồng ý thì bố sẽ sẵn sàng cùng với Hùng đứng ra tố cáo.” Thế là mười phân rõ mười rồi nhé. Chiêu “rung cây” của tôi đã tỏ ra thực sự hiệu quả. Mấy chú khỉ thuộc họ đầu to đang nép mình thin thít trên cây bỗng ré lên theo bản năng trong tâm trạng đầy run sợ. (“Trăm nghe không bằng một thấy,” dù tôi có tin vợ hay tin vào câu chuyện này đến thế nào đi nữa, niềm tin đó vẫn ít nhiều bị lung lay khi mà chính vợ tôi lại phủ nhận sự liên can của họ.) Tôi đưa ra điều kiện là họ phải thu xếp cho vợ chồng tôi 100 triệu Euro trong vòng một tháng. Số tiền đó rõ ràng là quá ít nếu so với 7 tỷ USD mà Trọng đã lấy đi (chỉ khoảng 2%), dù đối với một người bình thường thì không hề ít ỏi chút nào, vì tôi còn phải phòng bị việc chữa chạy cho vợ. Đến trưa, vợ tôi gọi điện lại cho ông Dũng.
Ông gửi lời cám ơn tôi vì đã cho họ cơ hội chuộc lỗi, đặc biệt là còn vì số tiền mà tôi đòi hỏi là không lớn, và dặn dò thêm, “Hùng đã gửi email cho những ai thì bảo nó hãy gửi thư lại cho họ để phủ nhận nội dung bức thư. Nếu Hùng chịu làm thế thì bố sẵn sàng trả gấp đôi số tiền trên.” Ông còn bảo, “Nếu ai đó có nói gì trên mạng thì bảo Hùng đừng buồn nghe.” Vợ tôi tỏ vẻ ngạc nhiên trước sự thay đổi thái độ một cách đột ngột của mấy ông kia. Lúc này tôi mới cho vợ biết việc mình đã gửi thư cho con gái ông Dũng. Vợ tôi hơi buồn vì không muốn tôi làm vậy. Thời gian ở khách sạn Hải Yến (Hà Nội) tôi đã từng bảo vợ nói với ông Dũng rằng nếu họ mà cứ chơi trò trẻ con mãi thì tôi sẽ gửi ngay bức thư tố cáo cho con gái ông Dũng, ông đã cầu xin vợ tôi hãy cố can ngăn tôi.
Ông gửi lời cám ơn tôi vì đã cho họ cơ hội chuộc lỗi, đặc biệt là còn vì số tiền mà tôi đòi hỏi là không lớn, và dặn dò thêm, “Hùng đã gửi email cho những ai thì bảo nó hãy gửi thư lại cho họ để phủ nhận nội dung bức thư. Nếu Hùng chịu làm thế thì bố sẵn sàng trả gấp đôi số tiền trên.” Ông còn bảo, “Nếu ai đó có nói gì trên mạng thì bảo Hùng đừng buồn nghe.” Vợ tôi tỏ vẻ ngạc nhiên trước sự thay đổi thái độ một cách đột ngột của mấy ông kia. Lúc này tôi mới cho vợ biết việc mình đã gửi thư cho con gái ông Dũng. Vợ tôi hơi buồn vì không muốn tôi làm vậy. Thời gian ở khách sạn Hải Yến (Hà Nội) tôi đã từng bảo vợ nói với ông Dũng rằng nếu họ mà cứ chơi trò trẻ con mãi thì tôi sẽ gửi ngay bức thư tố cáo cho con gái ông Dũng, ông đã cầu xin vợ tôi hãy cố can ngăn tôi.
Sáng hôm sau, ngày 8/4/2008, vợ chồng tôi cùng con gái trở về Đông Hà và xuống xe vào lúc 10h sáng. Thể theo yêu cầu của ông Dũng, tôi bước ngay vào tiệm Internet để gửi thư cho Diệp, trợ lý của con gái ông Dũng:
Diep than men,
Anh thuc long xin loi vi da lam phien Diep, tat ca la tai nguoi vo von mang chung benh tram cam nang va co hoi huong hoang tuong cua anh. Em cho anh gui loi xin loi chan thanh nhat den chi Phuong nhe, rat mong chi luong tinh bo qua cho anh, keo chi lai keo Cong an vao cuoc thi that tai hoa cho vo chong anh.
Chuc em nhieu may man, suc khoe, hanh phuc va thanh dat.
Cam on em,
HN 8/4/2008
Le Anh Hung
Sau đó, tôi về nhà nghỉ Phương Mai trên đường Nguyễn Huệ, còn vợ con tôi về lại nhà bà ngoại. Chiều hôm đó, ông Mạnh gọi điện cho vợ tôi. Vợ tôi hỏi, “Bấy lâu bố biệt tăm biệt tích ở đâu giờ mới đột nhiên hiện ra?” Ông Mạnh nói lần này ông sẽ không còn lặn mất tích như trước và sẽ chỉ nghe theo lương tâm của mình chứ không nghe theo lời người khác nữa (?). Ngoài số 200 triệu kia, ông còn cho tôi thêm 100 triệu nữa, tổng cộng 300 triệu Euro, tất cả đều là tiền của ông. Ông nói, “Bố thực sự ‘bái phục’ thằng Hùng đấy. Nó sống cứ như là ‘Phật’ ấy.” Dĩ nhiên những lời cảm thán đó chỉ có thể được thốt ra sau khi ông đã đọc bức thư tố cáo, dù rằng không đời nào ông chịu thừa nhận điều đó. Tôi gửi lời cám ơn ông Mạnh và nói ông càng cho nhiều thì sau này tôi càng có điều kiện để làm từ thiện. “Của thiên trả địa,” dù sao đấy cũng là cách để tôi giúp giải tội cho họ mà thôi. Biết vợ chồng tôi sẽ định cư tại Đà Nẵng, ông Mạnh nói sẽ cho chúng tôi ngôi nhà của ông ở Đà Nẵng để sửa sang lại rồi ở.
Thói đời cà cuống chết đến đít còn cay. Hơn ai hết, các ông kia ý thức rất rõ mức độ nguy hại của bức thư tố cáo. Chưa xét đến khả năng bức thư ấy bị lộ ra công luận rồi tới một ngày cả trong nước và ngoài nước đều tường tận sự việc, mà chỉ cần chẳng may rơi vào tay một đối thủ nào đó thôi, nó cũng đủ sức làm mất hết uy tín chính trị nội bộ của họ (lần trước tôi quên mất một chi tiết hết sức quan trọng là trong số chứng cớ ông Thắng thu được tại nhà tay trợ lý của ông Hải ở Quy Nhơn còn có cả bằng chứng về việc ông Hải bán tài liệu [liên quan đến an ninh quốc gia] cho nước ngoài). Vả chăng, câu chuyện này chả nhẽ lại chẳng xứng đáng được ví như lớp kem phủ trên chiếc bánh nhiều tầng mang tên “thời đại Hồ Chí Minh” hay sao? Mà biết đâu ông Mạnh lại chẳng đang nghĩ rằng mình có khi đúng là “nhà cải cách ôn hoà” thật, rồi sẽ có ngày được sánh vai cùng các bậc danh nhân đất Việt trong ngôi đền thiêng của lịch sử cũng nên! Vì vậy, sau khi bình tâm trở lại, họ vẫn quyết định lấy tội ác để che đậy tội lỗi của mình và tiếp tục dở chiêu thức cũ ra với tôi. Đầu tiên, ông Dũng hứa sẽ chuyển qua đường bưu điện cho vợ chồng tôi 50 triệu VNĐ để tiêu tạm song mãi vẫn không thấy đâu đồng thời biện bạch ra đủ thứ lý do nực cười này nọ.
Ông Mạnh còn bảo vợ tôi vào Huế phá cái thai mới được gần 2 tháng. Điều này thì tôi ủng hộ bởi tôi lo sức khoẻ của vợ không đảm bảo, vừa đang mang bệnh tật trên đầu lại vừa mới mổ đẻ chưa đầy hai năm, hơn nữa thời gian ở khách sạn Hải Yến vợ tôi bị cảm nên tôi có cho cô ấy hai lần uống thuốc kháng sinh trong một ngày (1/3 liều thuốc cảm của tôi). Song thâm ý của ông Mạnh lại khác. Ông ta biết nếu vợ tôi sinh thêm một đứa con nữa thì tôi lại càng khó lòng bỏ rơi vợ con mình được. Tuy nhiên, nếu phá thai lần này thì nguy cơ vô sinh là rất cao bởi chỉ mới cách đấy chưa đầy 5 tháng (trung tuần tháng 11/2007) vợ tôi đã bị sẩy thai và phải hút thai lưu ra ở Hà Nội rồi bị băng huyết ở Sài Gòn. Vợ tôi vì thế không muốn phá thai chút nào.
Ông Mạnh còn bảo vợ tôi vào Huế phá cái thai mới được gần 2 tháng. Điều này thì tôi ủng hộ bởi tôi lo sức khoẻ của vợ không đảm bảo, vừa đang mang bệnh tật trên đầu lại vừa mới mổ đẻ chưa đầy hai năm, hơn nữa thời gian ở khách sạn Hải Yến vợ tôi bị cảm nên tôi có cho cô ấy hai lần uống thuốc kháng sinh trong một ngày (1/3 liều thuốc cảm của tôi). Song thâm ý của ông Mạnh lại khác. Ông ta biết nếu vợ tôi sinh thêm một đứa con nữa thì tôi lại càng khó lòng bỏ rơi vợ con mình được. Tuy nhiên, nếu phá thai lần này thì nguy cơ vô sinh là rất cao bởi chỉ mới cách đấy chưa đầy 5 tháng (trung tuần tháng 11/2007) vợ tôi đã bị sẩy thai và phải hút thai lưu ra ở Hà Nội rồi bị băng huyết ở Sài Gòn. Vợ tôi vì thế không muốn phá thai chút nào.
Đến đây lại xẩy ra một biến cố khác. Số là trong hai hôm 10 và 11/4, vợ tôi phát hiện hình như có người đang bám theo mình. Trưa 11/4, vợ tôi điện báo cho ông Mạnh biết. Ông Mạnh phán đoán đây là người của Công an vì đường dây ma tuý của ông Hải và Trọng đã bị Công an đưa vào tầm ngắm từ lâu. (Vợ tôi kể một lần cô ấy xách hai valy đi giao hàng cho Trọng, vừa ra khỏi toà nhà Tràng Tiền Plaza thì bị Công an ập tới bắt giữ. Tuy nhiên chỉ chưa đầy 2 tiếng sau cô ấy lại được thả ra. Sau này Trọng cho biết lần ấy chính ông Hải đã can thiệp để cứu vợ tôi và việc cô ấy bị bắt là do Loan báo cho Công an. Cần nói thêm là vào tháng 4/2007, sau khi nghe vợ tôi tố cáo chuyện ông Hải buôn bán ma tuý, ông Toàn đã định vào Đông Hà rồi cùng tôi vào Quy Nhơn để điều tra – nghĩa là ít nhất phía Công an cũng đã nghi vấn cái chết của tay trợ lý thân cận của ông Hải từ lâu.) Gì chứ việc này thì các ông ấy phải mau mau mà lo liệu, bởi nếu bị bắt thì vợ tôi sẽ chẳng ngại ngần gì mà không khai tuốt ra hết. Ông Mạnh báo ngay cho ông Lê Hồng Anh và ông Nguyễn Khánh Toàn. Chiều 11/4, ông Toàn gọi điện cho vợ tôi.
Ông bảo vợ tôi “cứ yên tâm, không việc gì cả đâu,” để sang đầu tuần ông kiểm tra xem bộ phận nào đang cho người theo dõi cô ấy rồi sẽ can thiệp.
Ông bảo vợ tôi “cứ yên tâm, không việc gì cả đâu,” để sang đầu tuần ông kiểm tra xem bộ phận nào đang cho người theo dõi cô ấy rồi sẽ can thiệp.
Chiều thứ Bảy, ngày 12/4, vợ tôi vào Huế gặp ông Toàn và tối đến nghỉ lại khách sạn với ông Toàn. Sáng hôm sau, đích thân ông Toàn đưa vợ tôi vào khám ở Bệnh viện Trung ương Huế. Ông Toàn hình như cũng đã đọc bức thư tố cáo (do tôi gửi qua con gái ông Dũng) nên tâm sự với vợ tôi rằng lần trước ông bị ông Hải mua chuộc và ở vào thế không thể làm khác, đồng thời ông cũng bảo vợ tôi tại sao không tin chồng mình mà lại đi tin kẻ khác. Vợ tôi gọi điện cho tôi, “Dạo này ông Toàn trông lạ lắm, đôi mắt ông ấy ấm áp đầy tình thương chứ không như hồi trước.” Ông Toàn giới thiệu với mọi người ở bệnh viện rằng đây là cháu ruột của mình, ông còn tự đi mua một cặp lồng cơm về cho vợ tôi ăn trưa. Ông cũng khuyên vợ tôi đừng nên phá thai. “Biết đâu sau này nó lại có lợi cho con,” ông nói như buột miệng vậy. Vợ tôi đã nằm trên bàn mổ để chuẩn bị phá thai nhưng không hiểu trời xui đất khiến thế nào mà cô ấy lại đột ngột đổi ý vào phút chót và nhảy xuống, quyết định giữ cái thai lại. Tuy nhiên, vì sợ tôi mắng nên cô ấy giấu không cho tôi biết. Chiều hôm đó vợ tôi trở về nhà luôn.
Sang đầu tuần sau vẫn chẳng thấy tăm hơi tiền ông Dũng gửi đâu cả. Chứng nào tật nấy, ông Mạnh lúc thì bảo sẽ bay vào Huế để gặp tôi rồi lại hoãn, lúc lại bảo sắp bay vào Đà Nẵng rồi cũng hoãn nốt. Tôi bảo vợ nhờ ông cho người tới khách sạn Hải Yến thanh toán nốt số tiền phòng còn thiếu và lấy đồ đạc cá nhân cho hai vợ chồng. Sau đấy, ông báo lại là đã cho người tới thanh toán rồi. Tôi gọi điện ra kiểm tra thì nhân viên khách sạn nói là làm gì có ai đến thanh toán tiền đâu. Vợ tôi liền gọi cho ông Mạnh thì ông nói, “Bố sợ con giận nên mới dối con thế!?”
Thứ Ba, ngày 15/4, ông Dũng gọi điện báo cho vợ tôi là mẹ tôi đã viết đơn tố cáo vợ tôi buôn bán ma tuý, đồng thời bà có nhắc tới “bức thư” gì đó với Công an và nói với họ là nếu họ mà đưa được tôi về thì bà sẽ giao “bức thư” đó cho họ (?). Ông dặn vợ tôi, “Con đừng nói gì với Hùng vì bố không muốn nó phải tội bất hiếu (?). Hơn nữa, nếu biết chuyện nó sẽ gọi điện ra ngoài nhà rồi làm lỡ việc, điện thoại cố định ở nhà bà đang bị theo dõi.” Dĩ nhiên là vợ tôi nói ngay cho tôi biết và cố nhiên tôi vẫn tin lời vợ mình. Hôm sau, ông Toàn bay vào Huế rồi không ra Đông Hà mà bí mật hẹn gặp vợ tôi tại một nơi rất kín đáo ở thị xã Quảng Trị, cô ấy phải đi xe máy vào. Tại đây, ông Toàn cho vợ tôi xem lá đơn tố cáo vợ tôi buôn bán ma tuý mà ông chụp vào máy tính xách tay của mình, nét chữ trong bức thư trông giống nét chữ của mẹ tôi. Ông Toàn còn đưa điện thoại di động để vợ tôi gọi điện ra gặp mẹ tôi mà nước mắt dàn dụa. Bà không thanh minh hay khẳng định gì cả.
Tôi rất ấm ức vì nghĩ sau bao đắng cay chìm nổi, mọi việc sắp giải quyết xong đến nơi thì không khéo người nhà của mình lại phá hỏng. (Rõ ràng, đây là mưu mô rất xảo quyệt của họ vì họ nghĩ nếu tôi kiểm tra lại mà không có chuyện mẹ tôi tố cáo thì tôi sẽ không thể tha thứ cho vợ được đồng thời nghi ngờ những gì mà vợ tôi kể về bà trước đây cũng như toàn bộ nội dung của câu chuyện.) Tôi liên lạc với em gái (Mỹ) qua điện thoại, bảo nó tìm cách liên lạc với mẹ qua số điện thoại khác và khuyên bà đừng làm gì cả; tôi đang thu xếp mọi chuyện và sắp trở về nhà rồi; tôi sẽ mua nhà cửa đàng hoàng cho bà ở, chỉ mong bà tu thân tích đức đi cho con cái nhờ thôi. Em gái tôi thề độc là mẹ tôi không làm chuyện đó. Tất nhiên, tôi hoặc là nghi ngờ ba ông kia hoặc là nghi ngờ mẹ tôi chứ tôi biết vợ mình không bao giờ làm cái việc vô đạo đức đó.
Chiều 17/4, tôi rời nhà nghỉ Phương Mai và chuyển sang khách sạn Thành Đô trên đường Lê Duẩn. Sau hai lần thất hẹn, ngày thứ Sáu, 18/4, ông Mạnh gọi điện bảo vợ tôi nói với tôi là tối Chủ nhật tôi đi ô tô ra Hà Nội rồi người của ông sẽ đem tới cho tôi 5 tỷ VNĐ để tiêu tạm. Mấy trò cuội quen thuộc của ông Mạnh khiến tôi cảm thấy rất căng thẳng và mệt mỏi nhưng cũng tự nhủ là đành phải gắng chịu thôi. Bát nước đổ đang cố hốt lại cho đầy, tôi không muốn nó bị sứt mẻ thêm. Tôi nghĩ với bức thư tố cáo mà họ đã được tận mắt “thẩm duyệt” thì họ sẽ không dám lừa mình nữa đâu. Quá tam ba bận, lần này mà ông ta vẫn tiếp tục dở trò thì không còn gì để nói nữa.
Tôi đang nóng lòng chờ đến tối Chủ nhật để ra Hà Nội thì chiều hôm ấy, tại khách sạn Thành Đô, vợ tôi đã quỳ xuống ôm chân tôi khóc lóc xin tha lỗi. Cô ấy nói rằng vì quá yêu tôi, không muốn mất tôi mà bịa ra hết chuyện này đến chuyện khác để giữ tôi ở bên mình. Bây giờ mong ước của cô ấy là tôi quay về nhà để làm lại cuộc đời, nếu được vậy cô ấy sẽ rất vui và bớt đi phần nào mặc cảm tội lỗi của mình. Sau thoáng đầu ngỡ ngàng, tôi đoán ngay ra rằng các ông kia lại dở trò với mình rồi. Và lần này thì tôi không còn một chút hy vọng nào ở họ nữa. Tôi chẳng qua là vì thương vợ thương con và còn nghĩ đến cái tình của họ với vợ mình nên mới cho họ thêm cơ hội, chứ họ thừa biết trong mắt tôi cái chế độ chính trị mà họ là những kẻ đại diện mới thật quái gở và bỉ ổi đến nhường nào. Song họ đã chà đạp lên điều đó và vượt qua cả giới hạn cuối cùng mà tôi đặt ra cho họ, đang tâm cố gây ra cảnh tan đàn xẻ nghé cho gia đình tôi. Họ bất chấp ngay cả khi biết vợ tôi đang cảnh bệnh tình lay lắt, có thể tái phát bất cứ lúc nào nếu như bị sốc. Tôi biết vợ tôi đang đau đớn vô cùng nhưng lúc này thì chẳng thể thay đổi được gì nữa rồi. Vì vậy, tôi cứ vờ tin lời cô ấy. Tôi nói, “Anh sẵn sàng tha thứ hết cho em, anh không oán giận gì em đâu và không bao giờ bỏ rơi em cả. Vợ chồng một ngày cũng là nghĩa là tình. Bây giờ em cứ ở đây, anh sẽ đi chơi vài ngày cho khuây khoả rồi về Hà Nội bán nhà và vào đây với mẹ con em.”
Vợ tôi chia tay tôi, bước xuống cầu thang ngước nhìn lên vẫn thấy tôi đang đứng trông theo. Em vội hấp tấp chạy lại ôm lấy chân tôi nghẹn ngào, “Em xin lỗi anh!” Trong tôi lúc ấy chỉ còn lại nỗi uất hận trào dâng. Tôi đã cho họ nhiều cơ hội chuộc lỗi nhưng chính tâm địa độc ác đã biến họ thành những kẻ ngu xuẩn và khiến họ phải trả giá.
Vợ tôi chia tay tôi, bước xuống cầu thang ngước nhìn lên vẫn thấy tôi đang đứng trông theo. Em vội hấp tấp chạy lại ôm lấy chân tôi nghẹn ngào, “Em xin lỗi anh!” Trong tôi lúc ấy chỉ còn lại nỗi uất hận trào dâng. Tôi đã cho họ nhiều cơ hội chuộc lỗi nhưng chính tâm địa độc ác đã biến họ thành những kẻ ngu xuẩn và khiến họ phải trả giá.
Tôi ở lại khách sạn Thành Đô thêm một hôm để vợ tôi xoay tiền ra Hà Nội. Khi rời khỏi khách sạn Hải Yến, tôi vẫn thiếu hơn 2 triệu tiền phòng, ở đấy còn CMND và một số đồ đạc cá nhân của hai vợ chồng. Nhưng rốt cuộc vợ tôi không tài nào xoay ra nổi. (Ông Bùi Đại Thắng và ông Đào Duy Thanh về sau cho vợ tôi biết là ông Mạnh và ông Hải đã gọi điện cấm họ cho cô ấy tiền ngay từ khi chúng tôi còn ở khách sạn Hải Yến. Một số vị lãnh đạo của tỉnh có biết mối quan hệ giữa vợ tôi với họ cũng nhận được yêu cầu tương tự.)
Khoảng 4h chiều ngày 21/4/2008, tôi rời khỏi khách sạn Thành Đô, đi bộ qua cầu Đông Hà rồi tới tiệm Internet đầu tiên gần cây xăng bên tay trái. Tôi bắt đầu gửi Thư Tố Cáo (nội dung từ trang 3 đến trước PHẦN BỔ SUNG IV này), kèm theo một bức thư ngỏ bằng tiếng Anh cho Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, tới hơn 430 địa chỉ email mà tôi đã chuẩn bị sẵn (hầu hết các cơ quan thông tấn báo chí, các bộ ngành, các tỉnh thành, các trường đại học và một loạt văn nghệ sỹ, trí thức cùng một số cơ quan đại diện ngoại giao của nước ngoài ở Việt Nam). Gửi được tới chừng hơn một nửa số địa chỉ email thì trang Yahoo!Mail báo vượt quá giới hạn lượng email gửi đi trong một cùng một lúc, sau một tiếng nữa mới gửi tiếp được. Tôi bắt xe lên đường rồi xuống xe ở ngã ba Tam giác Quỷ, thành phố Vinh, thay vì ở Hà Nội như dự tính ban đầu.
Lúc ấy đã hơn 12h đêm, tìm quanh không có một tiệm Internet nào, tôi liền bắt xe ôm đến tận khu Đại học Vinh để gửi tiếp thư tố cáo tới số địa chỉ email còn lại (dĩ nhiên là có cả địa chỉ email của Diệp, trợ lý của con gái ông Dũng). Đêm đó, tôi vật vờ tại khu vực Tam giác Quỷ cho đến sáng mới đi bộ về nhà một người bạn.
Lúc ấy đã hơn 12h đêm, tìm quanh không có một tiệm Internet nào, tôi liền bắt xe ôm đến tận khu Đại học Vinh để gửi tiếp thư tố cáo tới số địa chỉ email còn lại (dĩ nhiên là có cả địa chỉ email của Diệp, trợ lý của con gái ông Dũng). Đêm đó, tôi vật vờ tại khu vực Tam giác Quỷ cho đến sáng mới đi bộ về nhà một người bạn.
Hôm sau, ngày 23/4, tôi mới liên lạc với vợ. Cô ấy lo lắng cho tôi lắm, nhưng tôi vẫn không cho vợ biết là mình đã gửi thư tố cáo. Tôi động viên vợ cứ yên tâm, “Anh đang ở nhà bạn, vài ngày nữa mới về nhà rồi tìm cách bán nhà để vào với mẹ con em.” Đến cuối tuần, tình hình vẫn không có gì mới cả, tôi biết là vụ này nhiều khả năng họ cũng chỉ “đóng cửa bảo nhau” như muôn thuở vẫn vậy thôi, chứ nếu không họ đã tiếp cận và thẩm vấn vợ tôi ngay rồi. Vì vậy, tôi liên lạc với Nhà xuất bản Tri Thức để đăng ký nhận dịch sách, chuẩn bị tâm thế cho một cuộc sống mới.
Trưa thứ Bảy, 26/4 tôi ra Hà Nội và trở về nhà mẹ. Mẹ tôi cứ một hai nghĩ rằng tôi bị vợ lừa dối rồi mang chứng tâm thần hoang tưởng. Bà bắt tôi đi khám và uống thuốc cho bằng được. Thực ra, ngoài chuyện ông Hải và Trọng tung tin bịa đặt thời gian vợ chồng tôi trốn chạy vào Quảng Trị lánh nạn thì điều này cũng còn có một nguyên nhân quan trọng khác nữa là đầu tháng 12/2007, vợ tôi có trốn về Việt Nam mà không cho tôi biết. Thời gian nằm điều trị ở Mỹ, vợ tôi nhớ tôi cồn cào và lo lắng cho tôi, trong khi Thuỷ và Trọng cứ hứa rày hứa mai là “Hùng sắp sang rồi.” Vì thế, sau khi mổ xong mấy ngày, đã có thể chập chững đi lại được, vợ tôi cầu xin một người Việt kiều tên là Minh, trước đây từng ký hợp đồng với cô ấy ở Cty Việt Tiến và Vinatex, giúp trốn về Việt Nam. Cảm động trước tấm lòng của vợ tôi, ông Minh đưa cô ấy ra sân bay và sau một lần chuyển máy bay, vợ tôi đặt chân xuống sân bay Tân Sơn Nhất. Vợ tôi gọi điện cho ông Dũng và ông cho người vào tận bên trong sân bay đón vì trong người cô ấy không có giấy tờ gì cả. Ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải tìm cách giữ vợ tôi lại (họ không muốn cô ấy gặp tôi) nhưng cô ấy vẫn nhất quyết đòi về Đông Hà. Vợ tôi cố liên lạc với Trọng để lấy ít tiền rồi về lo cho tôi nhưng không được. Hỏi mượn mấy ông kia thì họ nói là hết tiền rồi. Vợ tôi về tới Đông Hà hôm trước thì hôm sau mẹ tôi vào, trong khi đó tôi vẫn đang ở chỗ bạn của mình là Bùi Quang Hùng tại Sài Gòn. Mẹ tôi vì thế lại càng tin rằng vợ tôi lừa chồng còn tôi thì bị tâm thần hoang tưởng. Chờ suốt mấy hôm mà vẫn không liên lạc được với Trọng, vợ tôi bị đau đầu trở lại. Cô ấy đành phải để ba ông kia đưa sang London bằng máy bay riêng rồi vào nằm viện điều trị tiếp.
Ngày 8/5/2008, tôi đến NXB Tri thức nhận dịch cuốn Kinh tế học thể chế: Trật tự xã hội và chính sách công (Institutional Economics: Social Order and Public Policy) của Wolfgang Kasper và Manfred E. Streit. Trung tuần tháng 5 tôi bán được nhà, trang trải nợ nần và sáng 21/5 tôi vào tới Đông Hà, chính thức bắt đầu một cuộc đời mới.
Về sau, vợ tôi kể lại cho tôi những diễn biến trong mấy hôm cuối ở khách sạn Thành Đô của tôi. Sau khi đã dở hết “bài” với tôi mà thấy tôi dường như vẫn cứ “trơ gan cùng tuế nguyệt,” ba ông kia nghĩ rằng bây giờ may ra chỉ còn cách là thuyết phục vợ tôi phủ nhận lại những điều mà cô ấy từng kể cho tôi, bởi họ biết tôi rất tin tưởng vợ. Vì thế, ngày 19/4, cả ba ông họp lại và gọi điện cho vợ tôi. Họ nói, “Bây giờ chỉ có con mới cứu được các bố thôi. Con mà ở đây thì các bố sẵn sàng quỳ ngay xuống dưới chân để cầu xin con. Các bố hiện không còn một xu nào cả, thằng Trọng đã lấy đi hết rồi. Nếu thằng Hùng mà tố cáo thì người bị bắt đầu tiên chính là con. Giờ chỉ còn cách là con nói lại với thằng Hùng sao cho nó không còn tin con nữa để nó bỏ đi thôi.” Vợ tôi nói, “Tiền bạc thì các ông đưa được bao nhiêu thì đưa chứ vợ chồng tui có đòi hỏi nhiều đâu.” “Nhưng giờ các bố đang nợ nần tùm lum, một xu cũng không có.” Quá kiệt sức và chán nản trong tình cảnh phải chạy vạy từng đồng một (mà vẫn cố giấu không cho tôi biết), cô ấy còn biết làm gì hơn ngoài việc nghe theo lời họ. Vào buổi chiều ngày 20/4 ấy, vợ tôi cứ đinh ninh là tôi tin lời cô ấy thật. Lúc đó đầu óc em choáng váng, đau đớn quay cuồng, em như người mất hồn, bước đi không vững nữa. Khi bước xuống cầu thang giữa tầng một và tầng hai (tôi ở trên tầng 4) em bị ngã lăn một đoạn thì may thay có một nhân viên lễ tân kịp xuất hiện và đỡ dậy. Hôm sau, cả ba ông lại gọi điện cho vợ tôi để hỏi han tình hình. Vợ tôi mệt mỏi chán chường, không còn hơi sức để mà nói, “Bây giờ thì các ông đã thoả mãn chưa? Chồng tui không còn tin tui nữa mà đã bỏ đi rồi. Tui thương các ông mà các ông có thương tui đâu. Một xu các ông cũng chẳng chịu gửi cho tui.[18]” Ông Mạnh và ông Hải nghe thấy thế tỏ ra vô cùng hoan hỉ. Riêng ông Dũng thì dường như cố nén nước mắt mà hỏi vợ tôi, “Con có buồn lắm không?” Họ bảo sẽ đưa vợ con tôi ra nước ngoài sinh sống nhưng nghĩ tới cảnh ở nước ngoài lần trước mà vợ tôi còn thấy ớn lạnh, “Có chết tui cũng chết ở đây. Tui không đi đâu cả.” Vợ tôi cho biết thời gian đó cô ấy không còn muốn sống chút nào nữa và đã định mua thuốc ngủ tự tử rồi. Tuy nhiên, vợ tôi chỉ sợ là khi mình chết đi thì không ai chăm sóc nuôi nấng con nên mới thôi. Cô ấy cứ bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi là sau khi chết tôi sẽ đưa con gái về cho mẹ tôi nuôi. Vợ tôi cũng đã tính đến chuyện xin vào một ngôi chùa mà trước đấy cô ấy có quen vị sư trụ trì ở Huế để sinh con rồi sau sẽ đi làm nuôi con.
Suốt mấy hôm sau đó vợ tôi đau đầu dữ dội, máu lại chảy ra cả mũi và tai. Ông Mạnh vội mời một bác sỹ chuyên khoa từ Mỹ về Sài Gòn rồi vào Huế gặp và khám cho vợ tôi. Vị bác sỹ tiêm cho vợ tôi một mũi và nói nếu sau một tháng nữa mà máu vẫn tiếp tục chảy thì coi như vô phương cứu chữa, đồng thời dặn dò cô ấy phải tuyệt đối tránh bị sốc. Hành động này của ông Mạnh không hẳn là hoàn toàn xuất phát từ tình thương hay trách nhiệm đối với vợ tôi đâu. Vì sau khi tôi gửi thư tố cáo đi, họ rất sợ vợ chồng tôi, đặc biệt là ông Mạnh (“Hôm qua bận quá không gọi điện được cho con, sợ con giận!”... Khi tôi đang ở Hà Nội chờ bán nhà, họ cũng thuyết phục vợ tôi là để họ cho bà ngoại và mẹ vợ tôi một số tiền rồi đưa cô ấy ra nước ngoài sinh sống nhưng vợ tôi vẫn nhất quyết không đi. Họ nói với vợ tôi là “thằng Hùng sẽ bỏ con chứ không đời nào nó vào với con nữa đâu.”) Quả bóng đang nằm trong chân chính quyền và chỉ cần tôi dấn thêm một bước nữa là người ta không thể không mở cuộc điều tra cho đến nơi đến chốn, vì cái trò quyền lực càng leo cao thì càng lắm kẻ thù, nhất là với một người chỉ giỏi lôi bè kéo cánh, bảo thủ và dựa hơi Tàu như ông Mạnh.[19] Ông Mạnh lại cam đoan trong vòng 2 tháng sẽ chuyển cho vợ chồng tôi 300 triệu Euro như đã hứa.
Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời. Trước khi kịp hết thời hạn 2 tháng, ông Mạnh lại năn nỉ vợ tôi, “Bố bây giờ không đào đâu ra tiền cả, đất đai thì khó bán. Thôi con hãy nói với Hùng đừng dịch diếc gì nữa mà đau đầu. Mỗi tháng bố sẽ lấy tiền lương gửi cho các con 20 triệu rồi sau này có tiền bố sẽ đưa cho các con như đã hứa.” “Tháng nào bố không có đủ 20 triệu, chỉ được 10 triệu thì con với Hùng cũng nhận cho bố nhé (!?)” “Bố sẽ gửi cho đến khi nào chết mới thôi.” “Bây giờ bố không dám xin thằng Hùng tha thứ, nhưng nếu nó thương bố thì mong nó hãy để cho bố yên để bố làm hết nhiệm kỳ, kiếm thêm ít tiền rồi nghỉ hưu.” Vợ tôi vốn thương người nên mỗi khi họ năn nỉ cầu xin là lại xiêu lòng. (Khi biết tin tôi đã gửi thư tố cáo đi, cô ấy vẫn nói là “thấy tội cho họ.”) Lúc đầu, tôi cũng nghĩ là họ đang khó khăn thật. Nhưng rồi tôi cũng sớm nhận ra rằng đây lại là “bài” của họ mà thôi. Họ sợ nếu tôi có tiền, sẵn điều kiện làm này làm nọ thì càng thêm nhiều người tin vào câu chuyện. Vì vậy, sau khi ổn định cuộc sống ở Đông Hà và đã nhận từ ông Mạnh 40 triệu (2 tháng, mỗi tháng 20 triệu, gửi qua ông Bùi Đại Thắng), tôi bảo vợ không nhận tiền của họ nữa, tôi không muốn thiện chí của mình tiếp tục bị chà đạp. Hốt hoảng vì sợ tôi lại có âm mưu gì chăng nên sau khi đã năn nỉ ỉ ôi chán chê, mới đây họ thông báo là đã chuẩn bị xong tiền, thậm chí không còn đòi hỏi tôi phải ký vào giấy phủ nhận nội dung bức thư nữa mà một hai khẩn khoản tôi hãy lượng tình, bỏ qua tất cả mà nhận tiền cho họ. (Chỉ ông Mạnh và ông Hải tham gia còn ông Dũng thì không. Họ liên lạc với vợ tôi thông qua một người trung gian, vì họ biết công an đang ngấm ngầm điều tra.) Tuy nhiên, tất cả đã quá muộn, số tiền ấy giờ đây lại không còn nhiều ý nghĩa đối với tôi như trước nữa. Vả chăng, không lẽ tôi cứ phải tiếp tục tha thứ cho những kẻ vẫn cố tình lừa dối mình cho đến tận phút chót hay sao? Tôi thấy mình có bổn phận phải vạch trần bộ mặt thật của cái chế độ vô nhân và thối nát này cho toàn thể nhân dân Việt Nam cùng cộng đồng quốc tế được biết. Bên tôi là chính nghĩa, là hồn thiêng sông núi, là triệu triệu đồng bào, là bao linh hồn đã bỏ mạng vì oan uổng, vì những cuộc chém giết phi nghĩa. Chắc chắn lần này tôi sẽ không còn đơn độc nữa. Ngoài ra, bằng hành động này, tôi cũng muốn chuộc lại lỗi lầm cho vợ mình, người con gái trong trắng thơ ngây đã không may bị kéo vào vòng tội lỗi. Tôi hiện đang hoàn thành bản dịch cuốn Kinh tế học thể chế. Và đặc biệt, ngày 1/12/2008 vừa qua vợ tôi đã sinh hạ cho tôi đứa con trai yêu quý Lê Quảng Hà. Tôi muốn quý vị hiểu rằng tôi làm việc này không phải vì bản thân hay vì bất kỳ một cá nhân nào khác mà là vì chính quý vị, vì toàn thể nhân dân Việt Nam, vì tương lai của đất nước.
Trọng lúc này đã phải trả một cái giá xứng đáng với những tội ác do mình gây ra. Khi cùng vợ con từ Paris trở về Việt Nam ngày 2/11/2007, khuôn mặt mới phẫu thuật của anh ta bị khô tróc khá nghiêm trọng. Sau đó, cuối tháng 12/2007, Trọng bị đệ tử của ông Hải bắt giam cùng con gái của mình suốt cả tháng trời trong căn hầm tối tăm ở vùng đồi núi lạnh lẽo, điều kiện vệ sinh và y tế không có, hàng ngày lại bị đàn em của ông Hải tra tấn dã man nên khuôn mặt anh ta bị nhiễm trùng rất nặng. Vợ tôi kể, khi đi ô tô từ Huế ra Hà Nội ngày 12/3/2008, Trọng phải đeo khẩu trang bịt kín mặt và cả một cái kính đen to tướng đồng thời từ người anh ta toát ra mùi tanh nồng nặc. Sau khi rời khỏi Việt Nam ngày 13/3/2008 và định bụng không bao giờ còn quay về nữa (trên đường từ Huế ra Hà Nội, anh ta nói kiếp này coi như anh ta nợ vợ tôi, kiếp sau sẽ trả), nhưng chỉ mười ngày sau, một sức ép tâm linh vô hình nào đó đã buộc Trọng phải trở về để trao lại cho vợ tôi một ít tiền. Tuy nhiên, vừa mới chân ướt chân ráo về tới Việt Nam, chưa kịp làm gì anh ta đã phải vào bệnh viện cấp cứu và nằm tại chỗ thở bằng máy rồi chịu cơn đau hành hạ suốt hơn một tháng cho đến khi trút hơi thở cuối cùng.
Mới đây, Thuỷ đã bị ông Hải giết để bịt đầu mối. Những việc như thế hẳn ông Mạnh không thể không biết, thậm chí còn đóng vai trò đồng phạm, bởi ông ta đang cùng chèo chống với ông Hải trên con thuyền tội ác - cả hai đang tìm mọi cách phủi sạch dấu vết và che chắn dư luận nội bộ.[20] Dù vậy, hàng ngày ông ta vẫn không quên xuất hiện trên truyền hình để tiếp tục rao giảng về “đạo đức cách mạng,” về “thế trận lòng dân,” về “quyết tâm chống tham nhũng,” về “sức chiến đấu của Đảng” v.v và v.v. Phía sau chiếc bàn làm việc của ông Mạnh ở Văn phòng Tổng Bí thư là cả một kho của cải bí mật mà người ta hối lộ hay chia chác cho ông. Đấy là điều mà ông từng hãnh diện “khoe” với vợ tôi. Dù sao mặc lòng, trên toàn cõi Việt Nam đây vẫn chính là nơi mà ở đó từ “cộng sản” được hiểu với đầy đủ ý nghĩa thiêng liêng và cao đẹp nhất của nó. Cách đấy chỉ mấy bước chân thôi là ngôi đền của vị tổ sư đã khai sinh ra chế độ chính trị “dân chủ gấp triệu lần tư bản” này. Sau bao năm bôn ba hải ngoại, cả Đông lẫn Tây, người quyết định rước đạo tượng binh bách chiến bách thắng mang tên Marx–Lenin về Tổ quốc, rồi đưa cả dân tộc hăm hở lao vào vòng xoáy chết chóc của thời đại, trong khi vẫn không quên để lại cho đời những tác phẩm bậc thầy như “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” và “Vừa đi đường vừa kể chuyện.” Tất cả là do tầm nhìn [không] vượt qua [nổi] thời đại mà mình đang sống chăng? Trần Dân Tiên và T.Lan hẳn sẽ đồng thanh quả quyết rằng không chỉ đơn giản có vậy! May thay, người đã kịp lên đường đi gặp “cụ Karl Marx, cụ Lenin” trước khi phải chứng kiến hình ảnh cả đoàn tàu đất nước đâm đầu vào ngõ cụt, đâu đâu cũng cảnh lầm than, đói ăn thiếu mặc và bầu không khí nghi kị bao trùm. Khốn thay, giọt máu rơi[21] của người trong lúc lẽ ra phải tìm cách “sửa sai” cho người khi may mắn được trao cơ hội lịch sử thì, thay vì thế, lại cố sức hà hơi vào cái xác chết của người hòng dựng nó dậy tiếp tục làm tấm bình phong che chắn cho những việc làm bẩn thỉu, vô đạo đức của mình.
Chính trị là một sân khấu lớn, lớn đến mức mà ở đó người ta thường hay nhầm lẫn diễn viên với nhân vật. Quả thực, những ai mà chỉ đến tận lúc nhắm mắt xuôi tay mới chịu rời khỏi sân khấu đều đáng được xưng tụng là diễn viên bậc thầy, thậm chí đôi khi còn được gán cho cái mác “danh nhân” hư hư thực thực này nọ. Tuy nhiên, thật không may, con cái của họ từ thuở lọt lòng đã bị ánh sáng chói loà của sân khấu làm cho mờ mắt nên thường không ý thức được đâu là sân khấu đâu là cuộc đời và vì thế diễn xuất thường chả ra hồn. Đáng buồn hơn, nhiều khi chúng còn không chịu hiểu đạo lý và luật nhân quả ở đời để rồi chỉ vì ánh hào quang sân khấu giả tạo mà sẵn sàng dẫm đạp lên tất cả.
Ngày 5/8/2008, tức là hơn ba tháng rưỡi kể từ khi bức thư tố cáo được gửi đi lần đầu và sau khi tôi đã bán nhà ở Hà Nội rồi chuyển vào Đông Hà vừa dịch sách kiếm sống vừa chữa bệnh cho vợ, Công an Quảng Trị mới mời tôi lên để “trao đổi.” (Trước đấy, họ đã cho người dò la, tìm hiểu xem tôi có “bị” gì hay không; thậm chí họ còn cho hai tay sỹ quan công an trẻ giả danh công an thực tập cùng với viên cảnh sát khu vực vào nhà tôi để hỏi chuyện.) Họ nói họ sẽ không điều tra vụ này, rằng những gì tôi viết là bịa đặt, rằng những nhân vật liên can trong câu chuyện đều là các vị lãnh đạo nhà nước, không thể “bậy bạ” như thế được. Tuy nhiên, trong Biên bản làm việc tôi vẫn bày tỏ thái độ dứt khoát: “Tôi gửi bức thư này nhằm mục đích thứ nhất là tố cáo một sự thật, thứ hai là để bảo vệ chính mình. Điều tra hay không là việc của chính quyền. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những nội dung tố cáo.” Tôi cũng đã trực tiếp ký vào từng trang của bức thư tố cáo mà họ in ra từ file MS Word mà tôi gửi theo đường Internet. Rõ ràng, vụ này tuy phức tạp, liên quan đến những người đứng đầu chế độ, nhưng không thể nói là không điều tra được, vì có nhiều manh mối trong câu chuyện và nhiều nhân chứng còn sờ sờ ra đó. Dĩ nhiên, không phải nhân chứng nào cũng dám nói ra sự thật ngay, bởi họ bị những đối tượng liên can khống chế, đe doạ hay mua chuộc. Hơn thế, nhiều người còn có lợi ích sát sườn trong chế độ chính trị này.
Từ khi bức thư được gửi đi, sóng ngầm đã bắt đầu nổi lên ở Hà Nội. Các thế lực chính trị đang đấu đá và ngấm ngầm tìm cách hạ bệ nhau[22]. Tình báo nước ngoài cũng đã đánh hơi thấy và đổ về Việt Nam (vì tôi có gửi cho một số đại sứ quán và tổ chức nước ngoài ở Việt Nam). Bộ trưởng Công an Trung Quốc Mạnh Kiến Trụ vừa rồi (12/2008) tới Việt Nam cũng không ngoài mục đích là nhằm ổn định nội bộ giới lãnh đạo Việt Nam, bởi họ thừa biết sự sụp đổ của chế độ Cộng sản ở Việt Nam tất sẽ ảnh hưởng lớn đến tình hình chính trị ở Trung Quốc. Vì Trung Quốc tuy là kẻ thù truyền kiếp, người láng giềng muôn thuở lật lọng của Việt Nam song Đảng CS Trung Quốc và Đảng CS Việt Nam lại là “hai đảng anh em,” “môi hở răng lạnh.” Hy vọng với một nền dân chủ đích thực, tham vọng bành trướng của giới lãnh đạo Trung Quốc sẽ bị kiềm chế và người Trung Quốc sẽ thật sự “hảo hảo,” thể hiện đúng phong thái “quân tử Tàu” của một bậc nước lớn.
Trên chính trường hiện đang có hai phe phái chủ yếu. Một là phe bảo thủ, phản động, tìm mọi cách duy trì chế độ thối nát này hòng bòn rút xương máu của nhân dân, bán rẻ quyền lợi của Tổ quốc, làm tay sai cho Trung Quốc. Để khỏi làm mếch lòng các quan thầy ở Bắc Kinh, họ sẵn sàng ra tay đàn áp những người đồng bào yêu nước xuống đường biểu tình phản đối việc Trung Quốc chiếm đóng Hoàng Sa và Trường Sa. Phe này do ông Nông Đức Mạnh cầm đầu. Sau lưng ông Mạnh còn có “bố già của bố già” Đỗ Mười, một nhà bolshevik chân chính.[23] Những người chống lại phe trên phần lớn đều thuộc phái cấp tiến, cùng “ở trong chăn” nên hiểu rõ sự thối nát, bỉ ổi và vô nhân của chế độ chính trị này đồng thời lo lắng cho tương lai của đất nước. Trong số đó, không ít người hiểu rằng chỉ có một sự thay đổi triệt để mới khả dĩ xoay chuyển được tình hình, mọi sự vá víu hay cải cách nửa vời đều không thoát khỏi vòng luẩn quẩn và chỉ khiến tình hình đất nước ngày càng thêm bất ổn, thậm chí đối mặt với nguy cơ đổ vỡ, và khi ấy cái giá phải trả sẽ vô cùng đắt. Trước đây, ông Dũng cũng mang tư tưởng cấp tiến nhưng hiện ông đang bị ông Mạnh và ông Hải khống chế. Ông Dũng thực ra cũng chỉ là nạn nhân của ông Hải mà thôi, người ở địa vị cao mà đức độ như ông bây giờ quả là hiếm. Nếu ông Dũng lên tiếng, dũng cảm đối mặt với sự thật, quá trình chuyển tiếp sẽ diễn ra êm thấm. Ông sẽ lập công chuộc tội và giữ được uy tín. Nhược bằng không, ông sẽ mất hết; hơn thế, ông còn đắc tội với nhân dân, với lịch sử. Tôi mong mọi người sẽ lượng thứ cho ông để ông có cơ hội tiếp tục cống hiến cho nước nhà. Tôi cũng hy vọng mọi người sẽ “đại xá” cho ông Mạnh và ông Hải để họ tự nguyện rút lui, mở đường cho công cuộc chuyển mình của đất nước và mong họ qua đó đoái công chuộc tội, đừng tiếp tục lấy tội ác để sửa chữa sai lầm. Họ cần phải hiểu rằng đây chính là cơ hội cuối cùng của mình.
Trong lúc này, tôi kêu gọi tất cả mọi người, kể cả các phe phái chính trị trong Đảng, hãy đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên hết. Chế độ chính trị này đã gây ra quá nhiều tội ác. Nó đã quá thối nát và ruỗng mục từ trên xuống dưới. Thượng bất chính hạ tắc loạn, sự sụp đổ của nó là kết cục tất yếu. Một cái quái thai thì không thể nào lớn thành người được! Nhân dân Việt Nam đã phải chịu bao cảnh đau thương mất mát, vì vậy muôn người như một hãy cùng chung sức chung lòng. Kẻ nào phản bội lại quyền lợi của Tổ quốc, tiếp tục chà đạp lên nhân phẩm và các quyền con người cơ bản của nhân dân, hoặc thừa cơ “đục nước thả câu” thì sau này sẽ bị pháp luật trừng trị đích đáng. Quân đội Nhân dân do nhân dân nuôi dưỡng phải phụng sự nhân dân, bảo vệ Tổ quốc, không thể có cái gọi là “trung với Đảng,” trở thành công cụ bạo lực của một nhóm người để họ mặc sức cướp bóc, hà hiếp nhân dân. Công an Nhân dân lớn lên nhờ bầu sữa của dân trước hết phải bảo vệ nhân dân, bảo vệ an ninh Tổ quốc, không thể trở thành “thanh kiếm của Đảng” để họ đàn áp, bóp hầu bóp cổ cổ nhân dân. Ai có công sẽ được trọng thưởng, được lịch sử và nhân dân đời đời ghi nhớ, cho dù trước đấy đã lỡ tay nhúng chàm (dẫu sao, đi với đám ma cà rồng mà không toát lên mùi tanh của máu thì thế nào rồi cũng bị chúng “làm thịt.”) Thời thế tạo anh hùng, trên chính trường chắc chắn sẽ sớm xuất hiện một minh chủ đủ tài năng chèo lái đất nước vượt qua bước ngoặt này, còn sau đấy mọi thứ sẽ tuỳ thuộc vào quyền tự do lựa chọn thông qua lá phiếu thực sự dân chủ của người dân.
Dù thế nào đi nữa, điều hết sức quan trọng là cần phải làm sao để không gây ra xáo trộn quá lớn, ảnh hưởng đến nền kinh tế đất nước cũng như đời sống nhân dân, đồng thời để tránh bàn tay can thiệp thâm độc của Trung Quốc[24]. Vì thế tôi xin mạo muội đề xuất một số bước cơ bản sau đây:
1. Quốc hội (do dân bầu nên vẫn có đầy đủ tính hợp pháp) bầu ra một Uỷ ban Hành pháp Lâm thời (Chính phủ Lâm thời) để thay thế Chính phủ đương nhiệm, tiếp tục điều hành đất nước trong giai đoạn quá độ.
2. Quốc hội ra Nghị quyết xoá bỏ Điều 4 của Hiến pháp hiện hành.[25]
3. Quốc hội chỉ định một Hội đồng Soạn thảo Hiến pháp Quốc gia. Hội đồng này sẽ tập hợp các chuyên gia trong và ngoài nước để soạn thảo bản Hiến pháp mới. Sau khi Quốc hội thông qua, Hiếp pháp mới phải được toàn dân phúc quyết với tỷ lệ tán thành trên 2/3 thì mới có hiệu lực.
4. Tiến hành bầu cử theo Hiến pháp mới.
Thời gian quá độ chỉ nên từ 6 tháng đến 1 năm. Cần tránh cả thái độ thụ động, chờ thời hay nửa vời lẫn tư tưởng nóng vội, chủ quan, duy ý chí. Mọi thứ cần được tiến hành một cách bài bản, có trình tự và khoa học.
Tôi kêu gọi các bậc nhân sỹ và trí thức của nước nhà, những người đã may mắn được dòng giống tổ tiên và hồn thiêng sông núi phú cho trí tuệ hơn người để hiểu được quy luật, nhận thức được chân lý và lẽ phải ở đời, hơn ai hết các vị cần phải lên tiếng, phải thể hiện trách nhiệm đối với non sông đất nước, đừng để những “giấc mơ con” tiếp tục “đè nát cuộc đời con.” Nhắm mắt làm ngơ trước những bất công đang diễn ra hàng ngày, trước thực trạng suy thoái đạo đức ngày một nghiêm trọng và sự phân hoá xã hội ngày càng sâu sắc (mà tất cả đều do sự bịp bợm, bưng bít, độc tài, tham tàn, bạo ngược, vô liêm sỹ - tóm lại là TỘI ÁC - của Đảng CSVN) là hèn, là nhục, là vô trách nhiệm với Tổ quốc, với nhân dân.
Bất kỳ tội ác nào, dù của cá nhân hay của tập thể, rồi cũng đều đến lúc phải trả giá. Đấy là quy luật của muôn đời. Với những ai còn đang đứng giữa đôi đường, xin hãy nhớ rằng: Phò thịnh, chớ phò suy, mà trước hết là phải biết nhảy ra khỏi con tàu đang đắm. Sự phục thiện dù muộn vẫn còn hơn không. Và cuối cùng, đừng tự biến mình thành tội đồ của lịch sử, của dân tộc để đời đời bị lên án, nguyền rủa.
Quảng Trị - 2/2009
Lê Anh Hùng
PHẦN BỔ SUNG V
Câu chuyện này mô tả diễn tiến của sự việc theo trình tự thời gian. Sau mỗi phần như vậy, cho dù có oán trách ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải đến đâu tôi cũng đều ít nhiều cảm thông và mở ra lối thoát cho họ. Song thật đáng tiếc, không lần nào họ chịu “cải tà quy chính,” nghe theo tiếng gọi của lương tâm để thành tâm phục thiện. Và cứ sau mỗi lần như thế, họ lại lún sâu hơn vào vũng lầy tội lỗi, đồng thời chân dung của các bị can ngoại hạng này lại càng được lột tả một cách chính xác hơn.
Sau khi vợ tôi sinh con được hơn một tháng (ngày 1/12/2009), Công an chính thức bắt đầu điều tra. Họ biết vợ tôi đang bị ảnh hưởng ở đầu sau ca phẫu thuật chảy máu não, nếu điều tra trong thời gian mang thai thì rất dễ nguy hiểm đến tính mạng của cả hai mẹ con.[26] Họ tiến hành thẩm vấn vợ tôi qua điện thoại. Một trong những điều quan tâm của họ là tìm hiểu xem có ai đứng sau lưng vợ chồng tôi không. Họ cũng nhắn nhủ với tôi là đừng nên tố cáo nữa, nếu sự thật đúng như những gì tôi tố cáo, họ sẽ sẵn sàng trả cho chúng tôi một khoản tiền còn lớn hơn cả số tiền mà ba ông kia từng hứa hẹn cho vợ chồng tôi (2 tỷ USD); đồng thời họ cũng không quên doạ chúng tôi là nếu tôi mà tố cáo thêm lần nữa thì một trong hai người sẽ phải đi tù. Kiểu thẩm vấn của họ cũng rất ghê gớm. Nhiều lúc đang nhẹ nhàng ngon ngọt với vợ tôi, họ bỗng quay ngoắt 180o rồi lên giọng dọa nạt hết sức gay gắt khiến cô ấy không ít lần dựng hết tóc gáy. (Điều này khiến cho vợ tôi nhiều phen bị choáng váng, đầu óc đau ù ù.) Thậm chí, họ còn bịa ra một số tình tiết không có trong câu chuyện rồi hỏi vợ tôi để kiểm tra xem cô ấy có nhớ không, bởi trên thực tế vợ tôi chưa bao giờ đọc bức thư do tôi viết cả (cô ấy cũng cho họ cũng biết điều đó). Với một câu chuyện phức tạp và rối rắm đến như vậy, nếu không phải là người trong cuộc thì bất kỳ ai - cho dù có trí nhớ siêu việt đi chăng nữa - cũng khó lòng nhớ nổi, chứ đừng nói gì đến một người như vợ tôi.
Trước khi tung Thư Tố Cáo lên mạng lần thứ hai (ngày 12/3/2009 - với nội dung từ đầu cho đến trước PHẦN BỔ SUNG V này), ngày 27/2 tôi đã gửi bức thư ấy cho Ban Chuyên án, qua địa chỉ email của một viên sỹ quan điều tra tên là Thắng:
Kinh gui: Anh Thang,
Mong anh hay doc ky buc thu va hoi am that som cho toi. Toi cung mong anh hieu rang hien nay vo chong toi dang rat kho khan, lai o trong gia dinh vo nhu the nen thu that voi anh la toi vo cung buc boi, them mot ngay cho doi la ca mot cuc hinh doi voi toi.[27]
Cam on anh,
Le Anh Hung
Người ta đã in bức thư ra rồi chuyển cho ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải đọc đồng thời cũng chuyển cho các uỷ viên Bộ Chính trị và một số vị “lão thành cách mạng” khác đọc, kể cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ban Chuyên án đã nói với ba ông này là nếu họ chịu thú nhận tội lỗi, người ta sẽ “xử êm” cho họ, để họ lần lượt rút lui khỏi vị trí của mình.
Mãi tới ngày 5/3, Ban Chuyên án mới gửi email cho tôi (trước đấy họ cũng “chợn” vì chưa biết nói chuyện với tôi thế nào):
Chào Hùng,
Tôi đã nhận được thư của anh lâu rồi. Hôm nay có chút thời gian, tôi muốn nói chuyện với anh. Tôi biết anh bây giờ đang rơi vào tình thế bế tắc, lòng đầy hận thù khi xung quanh mình toàn là những kẻ độc ác, tôi biết anh bây giờ chỉ muốn trả thù và tố cáo bọn họ. Nhưng tôi khuyên anh hãy bình tĩnh và suy nghĩ lại, đừng để ảnh hưởng đến đất nước Việt Nam của mình, không nên anh ạ. Tôi và bao nhiêu người nữa đã đọc hết bức thư tố cáo của anh rồi, thật khủng khiếp.
Nếu bức thư này được tố cáo thêm lần nữa thì đất nước này hoàn toàn sụp đổ, không thể cứu vãn được nữa. Chúng tôi hoàn toàn ủng hộ vợ chồng anh nhưng cũng xin anh nghĩ đến đất nước này. Tôi biết tâm trạng của anh lúc này, chúng tôi có 1 lời khuyên anh nên bình tĩnh, hãy nghĩ đến tương lai sau này.
Suốt hai tuần nay chúng tôi đang thi hành tìm kiếm chứng cứ về ba ông kia. Chúng tôi cũng mệt, mong sớm kết thúc vụ việc này càng nhanh càng tốt. Vụ việc này rất là phức tạp vì liên quan đến nhiều người có địa vị trong xã hội
Tôi đã nói với vợ anh rồi, mọi chuyện từ từ cũng sáng tỏ, cái ác sẽ lòi ra ngay, có tội thì phải nhận không thể qua mắt luật pháp được. Chúng tôi tin vợ chồng anh nhất là vợ anh.
Sau khi kết thúc vụ này chúng tôi sẽ thực hiện lời hứa với vợ chồng anh như tôi đã nói với vợ anh.
Còn trong thời gian này tôi đang điều tra bí mật, chúng tôi đã có vài chứng để buộc tội ba ông kia. Mong anh hãy cho chúng tôi thêm 1 thời gian để tìm hiểu và điều tra.
Chúng tôi rất cám ơn anh. Mong anh hãy hợp tác với chúng tôi để bảo vệ đất nước này. Có gì tôi sẽ liên lạc với vợ anh.
“Lời hứa” mà họ nói ở đây là số tiền trị giá 7 tỷ USD. Họ muốn mua sự im lặng của tôi bằng số tiền khổng lồ đó. Lúc mới ra Tết Kỷ Sửu, số tiền mà họ đưa ra là 2 tỷ USD rồi sau đấy họ dần dần nâng con số này lên. Cho đến khi tôi gửi bức thư tố cáo lần 2 cho Ban Chuyên án (ngày 27/2/2009) thì họ quyết định chốt lại con số 7 tỷ USD, bằng đúng số tiền mà ba ông kia đã phải chi cho Trọng (dĩ nhiên là chúng tôi không hề đòi hỏi hay chèo kéo gì); người ta sẽ giao ngay 5 tỷ USD cho chúng tôi, số 2 tỷ USD còn lại sẽ được giao sau đấy một thời gian. Họ yêu cầu ba ông kia phải chi một phần trong số tiền trên như trước đây ba ông đã cam kết chi cho vợ chồng tôi (tổng cộng 2 lần là 3 tỷ USD).
Sau một thời gian, thấy tình hình vẫn chưa có nhiều chuyển biến, ngày 7/3, tôi gửi email cho Diệp, thư ký của Nguyễn Thanh Phượng, con gái ông Dũng, kèm theo bức thư tố cáo mà trước đấy tôi đã gửi cho Ban Chuyên án. Tôi hy vọng con gái ông Dũng sẽ sáng suốt hơn ông và sẽ biết khuyên ông xử sự một cách đúng đắn, khôn ngoan. Dĩ nhiên, cách khôn ngoan nhất chính là thể hiện sự trung thực.
Gửi Diệp,
Đề nghị Diệp chuyển thư này cho chị Phượng. Nếu không có gì thay đổi, thứ Hai, 9/3, anh sẽ tung bức thư này lên mạng. (This is a "losing battle.")
Cám ơm em rất nhiều,
LAH
Sorry, I mean "This is a 'losing battle' for her father and she knows how to advise him."
Thanks,
LAH
Tuy nhiên, ông Mạnh và ông Hải vẫn ngoan cố không chịu thừa nhận, còn ông Dũng thì lại cứ ỡm ờ, nửa muốn thú tội nửa lại không dám thừa nhận hết tội lỗi của mình.[28] Ban đầu, lúc mới bị thẩm vấn, ông Mạnh còn lớn tiếng với Ban Chuyên án là “tại sao một người lãnh đạo đất nước thì các anh không tin mà lại đi tin những thứ vớ vẩn trên mạng?” Nhưng sau khi tôi gửi thư tố cáo cho Ban Chuyên án, ông ta lại chọn phương án im lặng, không còn dám gay gắt như trước nữa mà đòi Ban Chuyên án phải tìm ra chứng cứ buộc tội. Khi các sỹ quan điều tra doạ rằng “nếu các anh không chịu thú nhận tội lỗi thì vợ chồng nó có thể tung thư tố cáo lên mạng lần nữa, vì chúng tôi đã lỡ nói là vợ chồng nó vô tội rồi,” ông Hải còn tỏ vẻ thách thức, “Có chết thì chết cả đám chứ đây cũng không phải chết một mình đâu mà sợ!” Đây là một lý do quan trọng khiến tôi đi đến quyết định tung bức thư lên mạng lần thứ hai vào ngày 12/3/2009.
Mặc dù cùng mở ra lối thoát cho cả ba ông nhưng tôi vẫn không đặt nhiều hy vọng vào ông Mạnh và ông Hải. Bởi ông Hải rõ ràng là một trùm ma tuý, trùm mafia khét tiếng, một kẻ giết người hàng loạt[29]. Ấy là chưa kể ông ta còn phạm tội phản quốc, bán tài liệu [liên quan đến an ninh quốc gia] cho nước ngoài nữa. Ông Mạnh thì đã được ông Hải và Trọng “cảm hóa” nên không ngừng ra sức “học tập và làm theo” hai “tấm gương đạo đức” này, tự biến mình thành một tên tội phạm tham lam, tàn ác và xảo trá. Ít nhất là đã hai lần ông ta định ra tay với tôi. Lần thứ nhất là ngay sau khi vợ chồng tôi đồng ý chia tay để “cứu” chính họ vào ngày 14/6/2007. Lần ấy, sau khi âm mưu của họ bị bại lộ, ông Dũng đã cho vợ tôi biết là Trọng đòi ông Mạnh phải giết tôi, vì anh ta sợ nếu tôi còn sống thì kiểu gì vợ tôi cũng sẽ tìm đường về với tôi; đặc biệt, ông Hải rất muốn giết tôi vì tôi biết quá nhiều bí mật tội ác của ông ta. Sau thời gian chạy vào ẩn náu ở thị xã Quảng Trị ngày 19/6/2007 và trở ra Đông Hà ngày 29/6/2007, vợ tôi đã vặn hỏi ông Mạnh về chuyện này, ông đã phải thú nhận rằng ông từng dự định là sau khi tôi nhận tiền (1 tỷ USD) xong, ông sẽ không giết mà chỉ đưa tôi “đi thật xa” thôi!!!??? Lần thứ hai là sau khi vợ con tôi ra Hà Nội vào ngày 8/11/2007 rồi sang Pháp. Ông Mạnh và ông Hải đã ngay lập tức cho người truy lùng tôi. Tuy nhiên, khi họ tìm đến được khách sạn Nam Đông thì trước đó (ngày 12/11) tôi đã lặng lẽ bỏ trốn vào Đà Nẵng. Vợ tôi còn đọc thấy quyết tâm sắt máu ấy trong đôi mắt ông Mạnh khi ông ta bí mật bay về Sài Gòn tối 14/11/2007 để trực tiếp nắm và chỉ đạo tình hình ngay trong thời gian đang ở thăm chính thức Hàn Quốc (“Đôi mắt ông ấy giờ trông ghê lắm.”). Trước tình cảnh vợ tôi ngất lên ngất xuống vì đau đớn và kiệt sức, ông ta không những không mảy may động lòng mà còn quyết tâm lấy máu của tôi và của cả bé gái mới 9 tháng tuổi hầu tô điểm cho “ngai vàng” của mình.[30] Nhưng sau đấy, vì biết tôi đã gửi thư cho em trai mình và biết tôi chắc chắn đã đề phòng nên ông Mạnh cũng như ông Hải mới không dám ra tay với tôi nữa.
Sau khi phát hiện ra âm mưu thâm độc của ông Mạnh và ông Hải ngày 17/6/2007, tôi bảo vợ giả vờ ngọt nhạt với Trọng để đánh lừa anh ta. Trọng tưởng thật và hớn hở thổ lộ với vợ tôi, “Nghe ‘ông ngoại’ gọi điện qua mà mừng thật!” “Ông ngoại” là từ mà vợ chồng tôi thống nhất dùng để ám chỉ ông Mạnh (còn ông Dũng là “ông nội”) trong thời gian ông Nguyễn Khánh Toàn theo dõi vợ chồng tôi vào cuối tháng 4/2007. Ngoài vợ chồng tôi và ông Mạnh, ông Dũng thì không ai biết được tên gọi thân mật ấy cả. Điều này chứng tỏ ông Mạnh từ chỗ bị Trọng bắt làm “con tin” đã quay sang đồng loã và cuối cùng là đồng cảm với Trọng. Hiện tượng này được người ta đặt tên là Hội chứng Stockholm[31]. Đây cũng chính là một cơ sở quan trọng để ông Mạnh, ông Hải và Trọng hợp thành “bộ ba nguyên tử” rồi làm ăn với nhau từ tháng 7 đến tháng 10/2007. Và chỉ riêng việc hợp tác với bộ đôi tàn độc Hải - Trọng là cũng đủ để cho người ta hình dung ra mức độ tội lỗi ghê gớm của ông Mạnh rồi.
Vì vậy, việc chờ đợi ông Mạnh và ông Hải thú tội là hơi thiếu thực tế, nếu không viện tới những biện pháp thật quyết liệt. Và người mà tôi thất vọng nhiều nhất chính là ông Dũng. Phải chăng tôi đã quá kỳ vọng vào con người này? Ông ta có thực sự chỉ là “nạn nhân” của ông Hải hay không?
Trước hết, cần phải cải chính một chi tiết trong câu chuyện là việc vợ tôi trở về Việt Nam vào cuối tháng 1/2008 không phải là do ông Dũng thuê máy bay sang đưa về mà là do vợ tôi tự trốn về Việt Nam, dù rằng trước đấy ông cũng hứa là sẽ đưa cô ấy về. Đó là một chuyến đi đẫm nước mắt mà bây giờ vợ tôi không còn dám nhớ lại vì cứ mỗi lần hình dung ra cảnh tượng thê thảm đó là cô ấy lại thêm một lần rùng mình sởn gai ốc. Vợ tôi phải dấu tôi chuyện ấy và bịa ra chuyện ông Dũng bố trí đưa về (lấy kinh nghiệm từ việc trước đấy họ đã bố trí máy bay riêng đưa vợ con tôi trở lại Anh để điều trị sau khi cô ấy trốn về Việt Nam vào đầu tháng 12/2007) là để tôi khỏi quá lo lắng trong khi đang lang thang vất vưởng ở Việt Nam. Sau này, trong thư tố cáo lần 2 tôi đã không cải chính một phần cũng là do có ý muốn “ghi điểm” cho ông Dũng. Song rốt cuộc, tất cả những thiện ý của tôi lại chỉ đem đến thêm sự thất vọng.
Số là, sau khi dàn cảnh cướp hết tiền bạc và tư trang của vợ tôi, Trinh lặn luôn một hơi không sủi tăm. Sau đó ít hôm, Thuỷ bảo với vợ tôi là đưa bà An sang Paris dọn dẹp lại ngôi nhà bên kia rồi đón vợ con tôi sang đấy ở cho an toàn. Thuỷ và bà An đi mà mấy hôm liền không hề liên lạc gì với vợ tôi cả. Cô ấy cùng con gái ở trong một ngôi nhà rộng thênh thang, hoang vắng, lạnh lẽo đến rợn người. Đồ ăn thức uống thì Thuỷ đã mua trữ sẵn trong nhà. Sức khỏe thì phập phù vì mới bị bọn cướp đánh vào đầu đến ngất xỉu ngay trong thời gian đang chờ hồi phục từ cuộc phẫu thuật chảy máu não.[32] Một buổi sáng, sau khi nhặt nhanh khắp nhà được mấy trăm dollar lẻ cùng một chiếc nhẫn kim cương rất đẹp, vợ tôi quyết định ôm con rời khỏi ngôi nhà rùng rợn ấy. (Trước đây vợ tôi thấy Thuỷ đeo chiếc nhẫn thích quá liền xin Thuỷ; Thuỷ tặng cho vợ tôi và nói thêm rằng giá trị của nó đủ để mua một căn biệt thự ở Việt Nam. Cô ấy đã tháo ra cất trước khi bọn cướp ập vào nhà nên không bị mất.) Khu vườn nhà rộng mênh mông ngập trong tuyết trắng xoá. Ra đến đường, vợ tôi vừa bế con đi vừa vẫy xe. Một vài chiếc xe dừng lại nhưng vợ tôi chẳng biết làm gì ngoài việc chỉ tay lên trời rồi nói “Việt Nam, Việt Nam” khiến họ chẳng hiểu gì cả nên lại bỏ đi. Đi mãi, đi mãi, cuối cùng cũng có một chiếc taxi dừng lại. Vợ tôi lại chỉ tay lên trời và nói “Việt Nam, Việt Nam.” Người tài xế taxi hiểu ý, chở vợ tôi ra sân bay. Ra đến sân bay, con gái tôi gần như lả đi vì lạnh và đói. Bước vào toà nhà trung tâm, vợ tôi bị các nhân viên an ninh chặn lại. Một nữ nhân viên an ninh nhìn thấy chiếc nhẫn kim cương trên tay vợ tôi liền chộp lấy tay cô ấy đưa lên xem. Vừa lúc đó, vợ tôi chợt nhìn thấy một cô gái đeo trên ngực phù hiệu Vietnam Airlines đi ngang qua, chỉ cách khoảng mấy bước chân. Quá mừng rỡ, vợ tôi liền vùng chạy theo cô gái kia. Vợ tôi nói với cô gái, “Em bị người ta lừa đi sang đây. Chị giúp cho em về Việt Nam với. Em không có tiền nhưng em sẽ trả cho chị chiếc nhẫn quý này, giá trị của nó có thể mua được một căn biệt thự ở Việt Nam đấy.” Cô gái dẫn vợ tôi đi tới gặp một người đàn ông hình như là cơ trưởng gì đấy. Sau đó, họ đưa vợ con tôi đến khu nhà dành cho đoàn bay. Vợ con tôi được bố trí ở trong một căn phòng của toà nhà. Người ta nhiệt tình mua sữa và thức ăn cho vợ con tôi. Vợ tôi phải ở lại sân bay hai ngày vì bão tuyết, máy bay không cất cánh được. Đến nửa đêm thứ ba, họ bí mật đưa vợ con tôi chui qua hàng rào và leo lên máy bay ngồi trước rồi chờ ở đấy. Hôm sau, máy bay mới cất cánh về Việt Nam. Xuống sân bay Nội Bài, vợ tôi phải gọi điện cho ông Dũng và ông cho người vào tận sân bay đón vì cô ấy không có giấy tờ gì trong người cả.
Để có thể khắc hoạ rõ nét hơn chân dung thực sự của ông Dũng, tôi xin điểm lại ở đây những lần chủ yếu mà ông đã lợi dụng lòng tin để lừa dối vợ chồng tôi.
v Lần thứ nhất là vào cuối tháng 4/2007. Lần đó ông định dụ tôi vào Đà Nẵng gặp ông rồi ở Đông Hà ông sẽ đón vợ con tôi đi theo Trọng.
v Lần thứ hai cũng cuối tháng 4/2007 (vào đúng hôm mà buổi chiều cùng ngày ông tiếp Tổng Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa đang ở thăm và làm việc tại Việt Nam). Lần ấy ông bí mật vào Đông Hà rồi gặp vợ tôi ở cơ quan ông Bùi Đại Thắng và nói, “Con hãy tạm thời đi theo bố một thời gian…”
v Lần thứ ba là vào ngày 11/5/2007. Ông nói với vợ tôi là ông sẽ đi ô tô về Hà Tĩnh thăm ba tôi.
v Lần thứ tư là vào ngày 8/7/2007. Ông bảo với vợ tôi sau khi đi thăm Ấn Độ về ông sẽ bí mật bay vào Huế để gặp gỡ và đưa tiền cho vợ chồng tôi.
v Lần thứ năm là vào ngày 9/7/2007. Ông bảo ông đã gọi điện cho ba tôi ở Hà Tĩnh theo yêu cầu của tôi để ba tôi yên tâm.
v Lần thứ sáu là vào ngày 7/11/2007. Ông bảo cho ô-tô vào đón vợ chồng tôi ra Hà Nội rồi ra nước ngoài.
v Lần thứ bảy là vào ngày 7/4/2008. Ông bảo sẽ gửi 50 triệu cho vợ chồng tôi, sau khi tôi đã gửi thư cho ông qua Diệp, thư ký của con gái ông.
v Lần thứ tám là vào ngày 8/4/2008. Ông nói với vợ tôi là hãy bảo tôi gửi thư cho thư ký của con gái ông để phủ nhận nội dung bức thư tố cáo. “Yên tâm đi. Ta không bao giờ lừa con đâu!”
v Lần thứ chín là vào ngày 15/4/2008. Ông báo với vợ tôi chuyện mẹ tôi tố cáo cô ấy buôn bán ma tuý.
v Lần thứ mười là vào cuối tháng 5/2008. Sau khi tôi đã bán nhà và vào Đông Hà với vợ con. Ông bảo sẽ bố trí công việc cho tôi, đồng thời nếu ông Mạnh mà không chịu chuyển 300 triệu Euro cho vợ chồng tôi thì ông sẽ cùng tôi đứng ra tố cáo ông Mạnh và ông Hải.
Tôi liệt kê dài dòng những chi tiết hầu hết đã được kể trong câu chuyện như thế là muốn qua đó để nêu lên một nhận định rằng nỗ lực phục thiện của ông Dũng cũng giống như một kẻ cố đuổi theo cái bóng của mình vậy. Từ một nạn nhân đáng thương, ông ta đã trở thành một tội đồ, một kẻ nói dối trơ trẽn. Những gì kể dưới đây sẽ minh hoạ rõ nét hơn cho nhận định đó.
Sau mấy lần bị thẩm vấn, đầu tháng 3/2009 ông Dũng mới hé mở cho Ban Chuyên án một manh mối để điều tra. Đó là Tuấn, bạn thân của Trọng, hiện đang cư trú ở Mỹ. Ông bảo họ cứ liên lạc với Tuấn thì sẽ tìm ra chứng cứ của vụ án. Ông đưa cho họ số điện thoại của Tuấn. Công an liên lạc với Tuấn thì được biết, trước khi chết Trọng đã giao toàn bộ chứng cứ cho Trinh. Tuấn cho Công an số điện thoại của Trinh, người hiện cũng đang ở Mỹ. (Thực ra, hôm thứ Năm, 5/3, khi vợ tôi cho tôi biết mấy người trong Ban Chuyên án hỏi xem có còn nhớ manh mối nào trong vụ án không, tôi bảo vợ nói với họ là hiện nay chắc chắn Trinh còn nắm giữ một số chứng cứ vì thời gian ở London anh ta đã dàn xếp vụ cướp tiền bạc và tư trang của cô ấy và của Thuỷ. Họ bảo là tại sao không nói sớm cho họ biết để điều tra.)
Ban Chuyên án đề nghị vợ tôi gọi điện cho Trinh và bảo cô ấy hãy tỏ ra ngọt nhạt với anh ta để anh ta giao chứng cứ cho. Ngày Chủ nhật, 8/3/2009, vợ tôi gọi điện cho Trinh thì được anh ta cho biết là trước khi về Việt Nam lần cuối cùng vào ngày 23/3/2008, Trọng đã linh cảm được cái chết cận kề của mình nên quyết định giao cho Trinh toàn bộ chứng cứ và dặn dò Trinh là “sau này nếu Phương mà bị Công an hỏi đến thì đưa chứng cứ ra để bảo vệ nó; còn nếu Công an không hỏi đến nó thì thôi.” Trinh nói, Trọng biết kiểu gì tôi cũng tố cáo nên phòng xa cho vợ tôi.[33] Trinh còn cho biết là vụ cướp ở London là do ông Hải và Trọng sắp xếp chứ anh ta không biết gì (?)[34]. Số chứng cứ Trinh đang nắm trong tay là đầy đủ và rất phong phú, toàn là bằng chứng gốc, chứa đầy một vali mà Trinh nhận xét là “rất kinh khủng,” ngoài ông Mạnh, ông Dũng, ông Hải còn có cả bằng chứng phạm tội của những người như ông Nguyễn Sinh Hùng. Trinh biết tôi đã tung thư tố cáo lên mạng và nói, theo đúng như lời Trọng dặn dò, anh ta sẽ chỉ giao số chứng cứ này cho vợ tôi hoặc cho tôi. Trinh còn nói là anh ta biết ai là người đang đứng sau lưng chúng tôi (?). Nếu vợ chồng tôi không sang Mỹ được thì anh ta sẽ sớm thu xếp trở về Việt Nam để trao cho vợ chồng tôi. Trinh còn bảo vợ tôi là tại sao ngày xưa không nghe lời anh ta để bây giờ ra nông nỗi này. (Hồi ở London, anh ta đã khuyên vợ tôi là cứ giả vờ yêu Trọng chứ có mất gì đâu mà sợ. Sau đó sẽ tìm cách đưa chồng sang rồi tính tiếp.)
Ban Chuyên án liên lạc với Trinh. Trinh đồng ý cho một sỹ quan bay sang Mỹ để anh ta đưa cho một vài chứng cứ, tuy không mạnh lắm. Và viên sỹ quan ấy là người do chính anh ta lựa chọn (?).
Ngày thứ Hai, 9/3, viên sỹ quan Công an kia lên đường sang Mỹ gặp Trinh. Trong tâm trạng vô cùng nóng ruột và ức chế, tôi gửi thư cho Ban chuyên án.
Kính gửi: Anh Thắng và các anh trong Ban Chuyên án
Tôi nghĩ vụ này coi như đã rõ trắng đen rồi, các anh đã có thể đưa ra kết luận, chỉ còn thiếu một vài chứng cứ để có thể chính thức buộc tội nữa thôi. Vậy thì không hiểu sao các anh lại không đáp lại thiện chí hợp tác của vợ chồng tôi, trong khi ngày nào tôi cũng cứ phải sống trong cảnh bức bối về tiền bạc và ức chế với bầu không khí ngột ngạt của gia đình vợ? Chúng tôi đã bị lừa quá nhiều rồi nên không bao giờ dám đặt trọn niềm tin vào bất cứ ai đâu, kể cả các anh cũng vậy. Rất mong các anh hiểu cho. Tôi thấy các anh cứ hẹn lần này đến lần khác, và đến bây giờ thì hình như các anh cũng không còn buồn hẹn nữa hay sao ấy. Tôi thực sự vô cùng nóng ruột và ức chế thần kinh.
Mong các anh suy xét và bớt chút thời gian hồi âm cho tôi.
Xin gửi tới các anh lời chào trân trọng,
Lê Anh Hùng
Ngày thứ Tư, 11/3, viên sỹ quan Công an kia mới về tới Hà Nội, mang theo một số chứng cứ bằng văn bản về sự dính líu của ba ông kia, tuy nhiên lại không đủ sức nặng cho lắm. Ban Chuyên án quyết định cho tôi sang Mỹ gặp Trinh để lấy hết số chứng cứ còn lại.
Ông Lê Hồng Anh bảo tôi gửi ảnh để làm hộ chiếu thì tôi bảo vợ nói với ông là chỉ cần đến kho lưu trữ hồ sơ CMND, lục lấy ảnh của tôi, chụp lại rồi làm là được. (Ông Lê Hồng Anh đã dũng cảm thừa nhận toàn bộ sai phạm của mình như trong Thư Tố Cáo. Vì thế ông được Bộ Chính trị tin tưởng cho tham gia Ban Chuyên án để điều tra vụ này. Sự dũng cảm và thức thời của ông quả là rất đáng khâm phục.)
Chiều thứ Năm, 12/3, ông Lê Hồng Anh cho vợ tôi biết là chiếu mai, 13/3, ông sẽ thông báo về chuyện hộ chiếu để chuẩn bị cho tôi đi nước ngoài. 5h chiều hôm đó, tôi đi từ tiệm Internet về và được vợ cho biết tình hình. Do quá bực tức trước thái độ lần lữa của họ, cộng với sự thôi thúc bấy lâu dồn nén trong lòng, dù đã chiều tối và lại là ngày gần cuối tuần, tôi vẫn quyết định đi một mạch đến tiệm Internet để tung Thư Tố Cáo lên mạng lần nữa. Lần này thì số địa chỉ email mà tôi gửi thư lên tới gần 2.000.
Sau khi bức thư được tung lên mạng lần thứ hai, tôi mới biết Ban Chuyên án này là do Bộ Chính trị chỉ đạo, chỉ trong phạm vi Bộ Chính trị biết mà thôi. Vì sau đấy, một số sỹ quan Công an từng thẩm vấn vợ tôi qua điện thoại đã gọi điện doạ dẫm cô ấy. (Ngoài ra, trong Ban Chuyên án này chắc chắn là có tay chân của ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải, bởi ngay sau đó, Trinh đã bị đánh động và lặn mất tăm.) Bộ Chính trị định “xử êm” vụ này và sau khi gạt ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải ra khỏi vòng quyền lực, họ sẽ chia nhau những chiếc ghế đầy quyền hành và béo bở này. Sau khi tôi gửi THƯ TỐ CÁO lần thứ hai, Bộ Chính trị đã thành lập một Ban Chuyên án mới.
Với áp lực ngày càng tăng, ông Dũng buộc phải đưa ra quyết định từ chức vào ngày 1/4/2009, dù với những lý do lãng xẹt, không liên quan đến câu chuyện này[35]. Sau đấy, ông Mạnh cũng phải viết đơn xin từ chức. Ông Mạnh và ông Hải vẫn một mực không chịu thừa nhận tội lỗi của họ mà đòi Ban Chuyên án phải tìm ra bằng chứng kết tội. Ông Dũng tuy có thái độ hợp tác hơn nhưng vẫn theo kiểu “lửng lơ con cá vàng.” Ngôi vị quyền lực số 1 hiện đã rơi vào tay ông Nguyễn Minh Triết, người bỗng dưng “bất chiến tự nhiên thành.” (Dù sao, ông cũng là một nhân chứng quan trọng trong câu chuyện.) Tất cả những gì đang diễn ra hiện nay chỉ là một màn kịch hòng che mắt dư luận và đánh lừa tình báo nước ngoài mà thôi.[36]
Thực ra, thái độ của ông Dũng chỉ cho thấy đây là một bước đi đầy toan tính của ông ta mà thôi. Ông ta biết mình không thể trơ tráo phủ nhận sạch trơn và tỏ thái độ thách thức như ông Hải, nên đây là cách để ông ta vừa thể hiện “thiện chí,” vừa để “câu giờ” đồng thời nghe ngóng phản ứng từ ông Mạnh và ông Hải. Bởi nếu thực sự thành tâm thì hà cớ gì ông ta lại không trao cho Công an số chứng cứ mà ông Bùi Đại Thắng thu thập được tại nhà tay trợ lý của ông Hải ở Quy Nhơn, Bình Định. Số tài liệu này hồi đó ông Thắng giao cho ông Dũng một phần và ông Mạnh một phần (vì lúc ấy ông Dũng đã bị ông Hải “trói” nên ông Thắng tuy do ông Dũng cử đi song vẫn bàn giao một số tài liệu quan trọng cho ông Mạnh, người mà ông Thắng cảm thấy tin tưởng hơn.) Hoặc ông ta có thể chính thức thừa nhận toàn bộ tội lỗi của mình, tố cáo lại ông Mạnh và ông Hải để Công an có cơ sở kết tội hai ông này. Còn nếu ông ta đã giao nộp chúng hết cho ông Hải thì hoặc ông ta là một kẻ ngây thật và thật thà còn hơn cả một đứa trẻ hoặc ông ta đã chủ tâm đồng loã với ông Hải trong câu chuyện, chứ hoàn toàn không đơn giản là “nạn nhân” bị ép buộc. Những chứng cứ này đã được ông Thắng bàn giao tận tay cho ông Dũng và ông Mạnh. Thời gian đó ông Dũng từng nói với vợ tôi là “Suýt nữa thì đất nước rơi vào tay giặc,” ý chỉ việc ông Hải bán tài liệu cho nước ngoài. Việc này mãi về sau này ông Hải mới biết. Cần nói thêm là sau khi bức thư được tung lên mạng lần đầu tiên (ngày 21/4/2008), ông Dũng - cũng như ông Mạnh và ông Hải - đã từng chối bay chối biến về sự dính líu của mình trong câu chuyện, đồng thời cứ một hai khẳng định rằng tôi là một “thằng khùng.”
Trở lại với con đường tội lỗi của ông Dũng. Thái độ của ông Dũng buộc người ta phải lật lại giả thiết về mức độ mà ông ta bị ông Hải giăng bẫy. Ông từng sám hối với vợ tôi rằng vì ông say nên bị ông Hải đưa vào bẫy. Tuy nhiên, “say” mà vẫn hoàn tất hoạt cảnh đó (để cho ông Hải quay phim) thì người ta có quyền đặt dấu hỏi về mức độ “say” của đương sự. Hơn thế, nếu có sự đồng thuận của cô gái thì không việc gì ông Dũng lại sợ cô gái kia tố cáo đến mức phải đồng loã với ông Hải trong vụ giết người diệt khẩu.
Ngoài ra, thời gian vợ chồng tôi mới chạy vào Đông Hà lánh nạn, ông Hải từng “xúi” ông Dũng tìm cách thủ tiêu tôi “để sau này Phương đỡ khổ.” Như vậy, thật ngây thơ khi lại tin rằng cho đến lúc ấy ông Dũng vẫn chưa nhận ra bản chất gian ác của ông Hải. Bất chấp thực tế đó, hai ông này vẫn có một quãng thời gian hết sức thân thiết với nhau. Điều này thì trong Chính phủ hầu như ai cũng biết và những cử chỉ thân mật đến độ suồng sã giữa hai người hẳn cũng đủ khiến nhiều kẻ phải cảm thấy xốn mắt. Thậm chí ngay sau khi ông Dũng ngồi vào chiếc ghế Thủ tướng, ở bên ngoài người ta đã kháo nhau rằng sau Đại hội Đảng lần thứ XI, ông Dũng sẽ thâu tóm chức vụ Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước còn ông Hải sẽ nghiễm nhiên trở thành Thủ tướng. (Riêng mối quan hệ thân thiết giữa ông Dũng và ông Mạnh thì vì lợi ích chiến lược nên hai người này không để lộ ra và rất ít người được biết.) Nếu vụ việc không bị phanh phui, chưa biết cặp bài trùng tội lỗi Nguyễn Tấn Dũng – Hoàng Trung Hải sẽ đưa con thuyền đất nước đi tới bờ bến nào.
Sau khi bộ mặt thật của ông Hải bị lộ ra ngày 23/3/2007, ông Dũng sợ hãi đến độ mất ăn mất ngủ. Và kể từ đó cho đến tận bây giờ, ông ta vẫn sợ ông Hải như sợ cọp. Tóm lại, nỗi đam mê quyền lực vô độ đã khiến ông Dũng đồng loã - hơn thế, nhiều khi còn đồng cảm - với con quỷ đội lốt người Hoàng Trung Hải; và sự ươn hèn đã biến ông ta thành một “con tin” nhu nhược trong tay ông Hải, bất chấp đạo lý, tự đẩy mình ngày một lún sâu hơn vào vũng bùn tội lỗi. Không đủ dũng cảm và quyết đoán để lập công chuộc tội, tự định đoạt số phận của mình khi còn có cơ hội, mà chấp nhận trao nó vào tay kẻ khác, ông Dũng đã cho người ta thấy ông chính là tội đồ hơn là nạn nhân.[37] Và, như một kẻ cứ cố đuổi theo cái bóng của mình, con đường phục thiện của ông ta xem ra còn dài miên man ở phía trước. (Theo logic này mà xét, việc ông Dũng tỏ ra hối lỗi rồi thổ lộ với vợ tôi ngày 17/6/2007, “Thực ra, tội của bố nhẹ hơn ông Mạnh nhiều...” chẳng qua là do lúc đó âm mưu của bọn họ đã bại lộ và vợ chồng tôi có thể tố cáo bất cứ lúc nào.)
Ngày 10/4/2009, ông Lê Hồng Anh và sau đó là ông Nguyễn Minh Triết đã liên lạc với vợ tôi để trấn an vợ chồng tôi, vì họ biết chúng tôi đang gặp khó khăn. Họ bảo vợ chồng tôi “cứ yên tâm,” mặc dù tình hình ở Hà Nội đang “cực kỳ khủng hoảng.” Nhà nước sẽ đảm bảo quyền lợi cho vợ chồng tôi.
Thiên bất dung gian, cái ngày mà bộ mặt thật của “nhà cải cách ôn hoà” Nông Đức Mạnh[38], “vị Thủ tướng cấp tiến” Nguyễn Tấn Dũng và “nhà kỹ trị” Hoàng Trung Hải bị phơi bày trước bàn dân thiên hạ chắc chắn chỉ còn tính tuần, tính tháng nữa thôi. Đến lúc ấy, dù có hối hận bao nhiêu đi nữa thì cũng đã muộn mất rồi.
Ngày 8/6/2009, tôi gửi email cho Diệp, thư ký của con gái ông Dũng, kèm theo nội dung trên đây của PHẦN BỔ SUNG V này:
Diệp thân mến,
Đề nghị Diệp chuyển bức thư này cho chị Phượng. Anh không muốn là sẽ buộc phải tung bức thư này lên mạng lần nữa, hoặc ít nhất là phải đóng đinh hình ảnh của ông Dũng như trong Phần bổ sung này.
Cám ơn em rất nhiều,
Lê Anh Hùng
Sau đấy, dù đã thú nhận phần nào tội lỗi của mình nhưng ông Dũng vẫn không dám khai gì liên quan đến ông Mạnh và ông Hải, cũng như không cung cấp chứng cứ mà ông Thắng thu thập được tại nhà tay trợ lý của ông Hải ở Quy Nhơn cho Ban Chuyên án. Ngày 18/6, vợ tôi liên lạc với một viên sỹ quan điều tra trong Ban Chuyên án và được ông này cho gặp ông Dũng. Ông nói, "Bố không dám xin được tha thứ. Tội của ai làm người ấy chịu. Tội của bố làm bố chịu. Chỉ có người trong cuộc mới hiểu được hết thôi con ạ." Dường như ông muốn thanh minh cho thái độ hợp tác nửa vời của mình với Ban Chuyên án.
Ngày 7/6/2009, Trinh bị bắt ở Trung Quốc và bị dẫn độ về Việt Nam. Đầu mối quan trọng nhất đã được tìm ra và vụ án coi như đã nhìn thấy hồi kết. Tuy nhiên, dù đã mấy lần được phía Công an thông báo là vụ án sắp xong nhưng cho đến nay vợ chồng tôi vẫn chưa thấy động tĩnh gì. Ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải vẫn cứ yên vị như thường. Không hiểu người ta định kéo dài màn kịch này đến bao giờ? (Thời gian vừa qua, nhiệm vụ chính của ông Mạnh chỉ là trình diễn trước ống kính camera mà thôi. Ông ta thậm chí chẳng còn đủ tư cách để chỉ đạo Hội nghị Quân chính Toàn quân do Đảng ủy Quân sự Trung ương, mà ông ta là người đứng đầu, tổ chức vào ngày 24/6 vừa rồi. Dù sao, các vị tướng lĩnh quân đội cũng là những người nổi tiếng bộc trực và ngang ngạnh khác người. Nếu ai tinh ý thì có thể dễ dàng nhận thấy hình ảnh ông Mạnh trong suốt thời gian qua là rất lu mờ; tuy vậy, nhiều lúc ông ta cũng không dấu nổi vẻ mặt sượng sùng, gượng gạo của một “diễn viên” bất đắc dĩ.[39] Cả ba ông hiện đều bị Công an giám sát chặt chẽ, tuy vẫn tiếp tục điều hành công việc và xuất hiện trên truyền hình để che mắt thiên hạ. Nhất cử nhất động của họ đều bị Công an theo dõi; các cuộc điện thoại phải được sự cho phép của Công an mới được thực hiện.) [40]
Ngày 3/7, vợ tôi được tiếp chuyện với một viên sỹ quan cao cấp trong Ban Chuyên án. Ông nói, “Cháu đang đi làm à? Làm như thế chắc chồng cháu buồn lắm phải không? Nhưng mình làm ăn chân chính chứ có gì đâu mà phải ngại.” “Chú chưa gặp được vợ chồng cháu song đúng là chồng cháu đã viết một lá thư thật ‘khủng khiếp.’ Lúc đầu không ai tin vào câu chuyện này cả. Bức thư đã tạo ra một bầu không khí còn hơn cả chiến tranh.” “Chú tin 100% là có ai đấy đứng sau lưng vợ chồng cháu nhưng các chú chưa tìm ra được.” “Các chú không như nhóm công an điều tra trước đây đâu. Các chú không sợ ai cả. Kể cả ông Trời xuống đây các chú cũng không sợ.” Vợ tôi hỏi, “Thế mấy tháng, mấy năm nữa thì xong hả chú?” “Cháu nghĩ các chú là một lũ ngu cả hay sao? Sắp xong rồi cháu à.” Trước đấy, ngày 27/6, vợ tôi cũng được một viên quan cao cấp khác trong Ban Chuyên án cho biết là “vụ việc sẽ khép lại trong tuần tới.”
Tối 6/7/2009, vợ tôi lại được gặp một viên sỹ quan cao cấp khác của Ban Chuyên án qua điện thoại. Ông này cho biết là chỉ trừ chứng cứ giết người của ông Hải là chưa tìm ra được (với một kẻ cáo già như ông Hải thì đây là điều hoàn toàn dễ hiểu; hơn thế, với kiểu cách hành xử của một bố già mafia đích thực, các vụ giết người ở đây thường là do tay chân của ông Hải thực hiện theo lệnh của ông ta; ngoài ra, bọn họ đã có một thời gian dài để tìm mọi cách xóa hết dấu vết tội lỗi của mình), còn những chứng cứ khác đã đủ để kết tội ba ông kia.[41] Và nếu đây là một vụ kiện thì coi như chúng tôi đã giành phần thắng. Ông cũng cho biết là họ đã đổ rất nhiều công sức, quên ăn quên ngủ, bỏ bê hết tất cả để tập trung vào vụ này, thậm chí đôi khi còn phải dốc cả tiền túi ra để mua chuộc đối tượng, thu thập chứng cứ và thông tin.[42] Và thành quả đạt được là thực sự bõ công. Ông còn hỏi thẳng vợ tôi là có phải ông Triết đang đứng sau lưng vợ chồng tôi không, vì có thư tố cáo ông Triết làm chuyện đó. Trước đây họ cũng đã từng úp mở về chuyện ấy nhưng lần này họ đã huỵch toẹt vấn đề ra luôn. Thật là lố bịch, trong khi những kẻ thủ ác táng tận lương tâm vẫn đang nhơn nhơn chường bộ mặt đáng kinh tởm trên truyền hình mỗi ngày thì họ lại cứ một hai cố tìm hiểu xem ai là kẻ đang đứng sau lưng vợ chồng tôi!
Ngày 19/7/2009, vợ tôi tiếp đoàn khách Công an gồm 5 sỹ quan Công an từ Hà Nội và hơn mười người ở Quảng Trị, cùng nằm trong Ban Chuyên án. Cuộc gặp mặt này có sự hiện diện của hai “đệ nhất bồ bịch” của ông Dũng và ông Hải. Công an đang tìm cách khai thác thông tin từ hai cô gái này. Một cô tên là Phương, biệt danh là Chip, sinh năm 1982, quê gốc ở Đông Hà, là bồ của ông Dũng. Cô kia quê ở Huế, sinh năm 1985, là bồ của ông Hải. Hai cô gái đẹp đến nỗi cả nhà hàng hầu như không ai thiết tha gì đến việc ăn uống mà cứ như bị hai cô hút mất hồn. Phương hào hứng cho mọi người xem đoạn phim lưu trong điện thoại quay cảnh tình tự giữa mình và ông Dũng. Cô ta dùng đến 6 chiếc điện thoại và chiếc nào cũng lưu những hoạt cảnh nóng bỏng này cả. Vợ tôi vờ mượn máy để lưu số điện thoại và có mở xem một được một đoạn, thấy rõ hình ảnh ông Dũng. Phương nói là đoạn phim trên cô ta thuê người quay và nhờ quay phim thế này mà cô ta đã tống tiền được các đại gia, dĩ nhiên ông Dũng là một đại gia “ngoại hạng” rồi. Thật khốn khổ cho ông Dũng! Vợ tôi còn phát hiện trong một clip khác có mặt cả Trọng. Hai cô gái này uống bia rất kinh. Mỗi cô làm hết 1 két Heinneken loại lon cao, thế mà xong rồi có cô còn than thở là “hôm nay uống kém quá, bình thường phải chơi hết 2 két!”. Họ kể nhiều chuyện về hai ông này, như chuyện được các ông đưa ra nước ngoài trong những chuyến công du; hai cô cũng nói là không hiểu hai ông kia lặn đâu mất tăm bấy lâu mà liên lạc không được (vì bị Công an giám sát chặt).
Vậy là đã rõ, người ta đã có thể đưa ra kết luận về vụ việc cho dù chưa phải là khép lại hoàn toàn. Nhưng bây giờ lại là lúc mà các phe nhóm trong Đảng đang tập trung đấu đá lẫn nhau. Đấy chính là lý do khiến họ cố tình “giam” vợ chồng tôi suốt thời gian qua để tìm hiểu xem liệu có ai đứng sau lưng chúng tôi hay không. Và người mà họ nghi ngờ nhất, cũng là người mà họ muốn gạt ra khỏi cuộc tranh giành quyền lực này nhất, chính là ông Nguyễn Minh Triết, người hiện đang mặc nhiên tạm thời đảm nhiệm vị trí của ông Mạnh, dù chưa phải chính thức. Oái ăm thay, đây dường như lại là nhân vật duy nhất có đủ khả năng đưa đất nước vượt qua khỏi cuộc khủng hoảng chính trị hiện nay.[43] Trong giai đoạn này, đất nước cần một nhà lãnh đạo đủ tài năng và bản lĩnh để đương đầu với rất nhiều thách thức phức tạp, gay cấn ở cả trong nước lẫn ngoài nước; đặc biệt, người đó cần phải có lập trường vừa khôn khéo vừa rõ ràng và mạnh mẽ trước Trung Quốc. Một kẻ thiếu tài năng và bản lĩnh rất dễ để cho đất nước tiếp tục sa vào quỹ đạo của Trung Quốc, rồi trở về với hình ảnh một quốc gia ươn hèn, bạc nhược như suốt mấy chục năm qua, mặc cho gã hàng xóm tham lam, xấu tính và tàn ác này cứ “được đằng chân, lân đằng đầu.” Ngay lúc này đây, việc tìm ra một khuôn mặt sáng sủa để ngồi vào vị trí của ông Dũng dường như còn quá khó (ông Dũng đã sẵn sàng từ bỏ chức vụ), huống hồ là một người đủ tài năng và bản lĩnh để chèo lái con thuyền đất nước trong cơn giông bão hiện nay. Dù thế nào đi nữa, sau khi vụ việc bị phanh phui, việc thay đổi Hiến pháp[44] xem ra là điều không thể tránh khỏi, và khi ấy những lá phiếu bầu thực sự dân chủ của người dân mới quyết định ai là người lãnh đạo quốc gia. Lẽ ra trong lúc này, họ phải gạt bỏ mâu thuẫn, đồng tâm nhất trí đưa đất nước vượt qua cơn bĩ cực này, vì lợi ích quốc gia, vì sứ mạng của họ trước bước ngoặt lịch sử của dân tộc. Song thay vì thế, họ lại chỉ nhăm nhe thọc dao vào lưng nhau và thừa cơ đục nước thả câu. (Chắc chắn, việc tìm ra một nhân vật “sạch sẽ” trong cái đám ấy còn khó hơn cả chuyện mò kim đáy bể. Nếu có vị nào đấy chưa bị “lộ” thì cũng đừng nên vì thế mà tự vỗ ngực rằng ta đây “tài đức vẹn toàn!”)[45] Và xem chừng, “cuộc vật lộn trên biển lớn” này còn có nguy cơ kéo cả con thuyền đất nước chìm nghỉm luôn.
Chiều ngày 2/8/2009, vợ tôi đi tiếp đoàn khách của Công an Quảng Trị. Giữa chừng buổi tiệc, vợ tôi đi toilet một lúc rồi quay vào thì bất ngờ chạm trán ông Nguyễn Minh Triết cùng một nhóm người lạ mặt nữa. Họ như từ dưới đất chui lên vậy. Thì ra, ông Triết và đoàn tuỳ tùng mới tới Đông Hà vào đầu buổi chiều. Vợ tôi vẫn nhận ra ông Triết vì “đã gặp ông này một lần cũng như thấy nhiều lần trên TV nữa.” Ông Triết cũng hỏi thăm cô ấy vài câu xã giao. Mấy người đi theo ông hỏi han và săm soi vợ tôi khá kỹ. Cô ấy kể lại là “họ nghiêm lắm, ngồi bên họ mà đôi lúc nổi hết cả da gà!” Một vài người trong bàn tiệc lên tiếng động viên vợ chồng tôi. Cuối buổi tiệc, ông Triết cùng đoàn tuỳ tùng rời Đông Hà và vào Huế. Tôi biết, nếu không có sự dũng cảm, tinh thần trách nhiệm cùng thái độ không khoan nhượng của ông, chắc chắn vụ việc này khó lòng bị lôi ra ánh sáng (dĩ nhiên, công sức của các sỹ quan điều tra trong Ban Chuyên án cũng rất lớn). Đơn giản là ai cũng dễ dàng nhận thấy thuộc hạ của ông Mạnh, ông Dũng, ông Hải là “đông như quân Nguyên.” Kết quả điều tra đã cho thấy sau lưng ba ông này, đặc biệt là ông Mạnh và ông Hải, là cả một tập đoàn tội phạm (tham nhũng), tuy mức độ dính líu có khác nhau. Mặc dù vậy, quá bức xúc và ngán ngẩm trước cảnh đấu đá tranh giành quyền lực nội bộ trong tình thế mà lẽ ra họ cần phải đoàn kết với nhau hơn lúc nào hết, ngày 23/7 vừa qua, ông Triết đã viết đơn từ chức và xin ra khỏi Đảng.
Tôi đã thể hiện trách nhiệm của một công dân trước Tổ quốc, không lóa mắt trước tiền bạc cũng như không run sợ trước cường quyền, đồng thời đã hợp tác đầy đủ với họ để đi đến một giải pháp tối ưu, không chỉ cho vợ chồng tôi, cho các bị can chính trong câu chuyện, mà còn cho cả chế độ chính trị này nhằm giữ thể diện quốc gia (thay đổi Hiến pháp và chuyển sang nền dân chủ thực sự một cách êm thấm).[46] Tôi cũng đủ cảnh giác để không “câu kết” hay dính líu đến bất kỳ một đảng phái hay tổ chức “phản động” nào cả. Song dường như họ muốn thử thách chúng tôi đến tận cùng của sự nhẫn nhục và sức chịu đựng. Chỉ có điều là mọi thứ đều có giới hạn của nó. Họ thiếu sự tôn trọng đối với người mà họ đang muốn hợp tác, thậm chí họ cũng không thèm đếm xỉa đến tình trạng bệnh tật của vợ tôi, điều mà tôi luôn luôn lo lắng. Tôi không thể tiếp tục kiên nhẫn ngồi chứng kiến màn đấu đá tranh giành quyền lực xem chừng không có hồi kết của họ trong tình thế nước sôi lửa bỏng của nước nhà như hiện nay được nữa.
Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Tôi kêu gọi các vị Ủy viên TW Đảng có lương tri hãy khảng khái lên tiếng. Tôi cũng kêu gọi các sỹ quan điều tra trong Ban Chuyên án hãy dũng cảm đưa vụ việc ra trước công luận. Hãy chấm dứt ngay những trò dối trá, bịp bợm vô liêm sỹ đang diễn ra hàng ngày. Hãy thức tỉnh lương tâm và đưa dân tộc ra khỏi cơn ác mộng “cộng sản” đã kéo dài hơn nửa thế kỷ qua. Đây cũng chính là cơ hội cuối cùng của Đảng Cộng sản Việt Nam trước khi mọi thứ vuột ra khỏi tầm kiểm soát của họ.
Quảng Trị - 8/2009
Lê Anh Hùng
PHẦN BỔ SUNG VI
Qua những gì tôi đã trình bày ở PHẦN BỔ SUNG V, quý vị hẳn đã nhận thấy rằng chính sách đối ngoại của Việt Nam đã thay đổi, theo hướng tỏ thái độ cứng rắn với Trung Quốc và xích lại gần hơn với Mỹ. Sự thay đổi chính sách này không phải bắt đầu từ vụ Bauxite Tây Nguyên ồn ỹ kia đâu mà là từ sự kiện ông Nông Đức Mạnh bị đánh gục hoàn toàn. Ông Mạnh là người cầm đầu phái thân Trung Quốc trong Bộ Chính trị và BCHTW Đảng. Điều này hoàn toàn dễ hiểu bởi ông Mạnh là do ông Đỗ Mười dựng lên mà ông này cùng với ông Lê Đức Anh chính là một cặp bài trùng tay sai tận tuỵ của Trung Quốc. Hơn nữa, với tư cách là đứa con rơi của ông Hồ Chí Minh, hơn ai hết ông Mạnh muốn duy trì thể chế chính trị này bằng mọi giá, chí ít là càng lâu càng tốt. Muốn vậy, Việt Nam buộc phải ngả theo Trung Quốc, mà muốn theo người ta thì phải cố gắng để không làm cho họ mếch lòng hay phật ý. Chính vì thế mà từ trước tới nay, mặc dù Trung Quốc ngang nhiên bắn giết ngư dân Việt Nam trên Biển Đông hay có những động thái xác lập chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Chính phủ Việt Nam vẫn chỉ có những phản ứng yếu ớt, cho thấy thái độ ươn hèn, bạc nhược quen thuộc. Ngoài ra, với tâm lý của một kẻ bất tài, ông Mạnh chỉ muốn giữ nguyên hiện trạng hòng đảm bảo quyền lực, không dám thay đổi vì sợ mọi thứ vượt ra khỏi tầm kiểm soát của mình.
Tất nhiên, ông Mạnh không phải đột ngột bị đánh gục ngay đâu. Ông ta bắt đầu cái “chết” từ từ của mình kể từ thời điểm tôi tung bức thư tố cáo lên lần đầu tiên vào ngày 21/4/2008. Sau thời điểm đó, ông Trương Tấn Sang bỗng trở nên hoạt bát hẳn lên, với tần suất xuất hiện trên truyền hình thường xuyên hơn, phát biểu, chỉ đạo hăng hái hơn so với trước đấy và xem ra có chiều lấn át ông Mạnh.[47] Nếu tinh ý, quý vị có thể dễ dàng nhận ra điều này trong buổi làm việc của Ban Bí thư với Thành uỷ Đà Nẵng tại Hà Nội vào ngày 1/7/2008 (xem video clip kèm theo đây http://clip.vn/watch/Ban-bi-thu-TW-dang-lam-viec-voi-thuong-vu-thanh-uy-Da-Nang,WyQE). Ngồi bên cạnh Tổng Bí thư mà ông Sang vẫn dứ dứ nắm đấm cứ như thể ông ấy mới là Tổng Bí thư còn ông Mạnh chỉ là cấp dưới. Sau đấy, ông Mạnh đã phải chấp nhận ngậm bồ hòn để Ban Bí thư kỷ luật chiến hữu thân thiết của mình là ông Nguyễn Việt Tiến vào ngày 12/8/2008, mặc dù trước đấy (ngày 28/3/2008) VKSND Tối cao đã chính thức công bố Quyết định số 13/VKSNDTC-V1A đình chỉ vụ án đối với bị can Nguyễn Việt Tiến và việc ông ta trở lại chiếc ghế Thứ trưởng Bộ GTVT tưởng như chỉ còn là vấn đề thủ tục mà thôi. (Trong quyết định này, VKSND Tối cao đề nghị: Bộ Giao thông Vận tải và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phục hồi các quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Nguyễn Việt Tiến theo quy định của pháp luật.) Tất nhiên, đứng đằng sau vụ kỷ luật này là ông Trương Tấn Sang. Với tư cách Thường trực Ban Bí thư, thường xuyên tiếp xúc và làm việc với ông Mạnh, ông Sang có thừa nhạy bén và khôn ngoan để cảm nhận được thái độ của ông Mạnh sau khi bức THƯ TỐ CÁO được tung lên mạng lần đầu vào ngày 21/4/2008. Ông Mạnh lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan. Xử vợ chồng tôi thì không được, vì ông ta - cùng với ông Nguyễn Tấn Dũng và ông Hoàng Trung Hải - là những người bị tố cáo, những tên tội phạm đích thực. Mà không xử vợ chồng tôi thì ăn nói thế nào với Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng đều không ổn. Nếu bảo tôi bị “tâm thần” thì cứ việc kiểm tra là xong, điều đó có gì quá khó đâu. Mà tâm thần sao được khi tôi vẫn dịch sách học thuật như thường.[48] Hơn nữa, ông Nguyễn Minh Triết cũng đã từng gặp vợ tôi tại khách sạn Hanoi Daewoo ngày 15/4/2008 với tư cách là con nuôi của ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải nên ông Triết chính là một nhân chứng rất quan trọng.[49] Ông Mạnh bị đánh gục hoàn toàn sau khi tôi gửi THƯ TỐ CÁO lần 2 (từ đầu cho đến PHẦN BỔ SUNG IV) cho Ban Chuyên án vào ngày 27/2/2008 (trước cả khi tôi tung lên mạng lần thứ 2 vào ngày 12/3/2009). Sau khi ông Mạnh bị đổ, cán cân quyền lực trong Bộ Chính trị cũng thay đổi, nghiêng hẳn về phía những người chủ trương xích lại gần hơn với Mỹ, cứng rắn với Trung Quốc. Đấy chính là lý do vì sao các tin tức về Hoàng Sa - Trường Sa bổng trở nên sốt dẻo và mạnh mẽ hơn bao giờ hết trên các trang báo ở Việt Nam kể từ thời điểm đó.
Tuy nhiên, đây lại là thời điểm nhạy cảm trên bàn cờ chính trị quốc tế (khi Mỹ đang gặp khó khăn do khủng hoảng kinh tế đồng thời bị sa lầy ở Iraq và Afganistan còn Trung Quốc đang không ngừng trỗi dậy và tỏ rõ tham vọng bành trướng đã kìm nén bấy lâu) nên mặc dù Việt Nam đã quyết xích lại gần hơn với Mỹ nhưng cũng phải hết sức thận trọng nhằm tránh để Trung Quốc phát hiện ra và can thiệp, đặc biệt là trong bối cảnh Bộ Chính trị đã quyết định là sẽ thay đổi Hiến pháp và cải cách thể chế triệt để.[50] Chính vì thế mà các nhà dân chủ đầy nhiệt huyết (nhưng cũng hơi ngây thơ) như Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung... bỗng trở thành những chú dê tế thần, như tôi đã nhận định trong PHẦN BỔ SUNG V.
Sự kiện THƯ TỐ CÁO được tung lên lần đầu vào ngày 21/4/2008 cũng đánh dấu sự trỗi dậy của một phe nhóm khác trong Bộ Chính trị và Ban Chấp hành TW Đảng - đó là phái Lam Sơn (Thanh Hoá) của ông Phạm Quang Nghị và ông Tô Huy Rứa. Lý do rất đơn giản. Để xác thực mức độ khả tín của câu chuyện, hai ông này chỉ việc hỏi ông Nguyễn Di Niên (cựu Bộ trưởng Ngoại giao) và ông Lê Công Phụng (cựu Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao, nay là Đại sứ Việt Nam tại Mỹ) - cả hai đều là người Thanh Hoá - là những nhân vật mà tôi đã nhắc đến trong phần đầu câu chuyện (liên quan đến việc ông Nguyễn Đình Trường “chạy” cho tôi vào làm ở Vụ Bắc Mỹ, Bộ Ngoại giao). Hai vị này chẳng mất gì - thậm chí đối với ông Lê Công Phụng thì lại còn có lợi là đằng khác - khi xác nhận những gì liên can đến họ trong câu chuyện. Điều này có nghĩa là ông Nghị và ông Rứa đã nắm được “thóp” của ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải, khởi nguồn cho sự xuất hiện của một cực quyền lực mới trong Bộ Chính trị và BCHTW Đảng. (Có kẻ “trầm” tất có kẻ “thăng.”) Thực tế đó chắc chắn cũng góp phần không nhỏ vào việc ông Tô Huy Rứa trở thành Uỷ viên Bộ Chính trị tại kỳ Hội nghị BCHTW lần thứ IX diễn ra từ ngày 5÷13/1/2009.[51]
Tuy nhiên, điều mà tôi cảm thấy hết sức bất bình là những nhân vật trên đây đã sử dụng câu chuyện để mưu lợi cho cá nhân và phe nhóm của mình nhiều hơn là thể hiện tinh thần trách nhiệm cần thiết để yêu cầu điều tra vụ việc một cách nghiêm túc từ đầu. Và bàn tay tội ác của ông Mạnh, ông Dũng, ông Hải lẽ ra đã phải bị chặn lại ngay từ khi bức thư tố cáo được gửi đi lần đầu (ngày 21/4/2008).
THƯ TỐ CÁO (ngay từ lần thứ hai tung lên mạng ngày 12/3/2009, tức là với nội dung từ đầu cho đến PHẦN BỔ SUNG IV) đã gây ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu rộng trong nội bộ giới lãnh đạo cao cấp, mặc dù bên ngoài ít ai phát hiện ra. Ảo tưởng về tính ưu việt của chế độ cùng sự cần thiết phải duy trì tình trạng ổn định chính trị - mà trước nay họ vẫn cố tự huyễn hoặc mình để bấu víu vào - đã tan vỡ một cách phũ phàng, không thể cứu vãn nổi. (Ngoài ra, trong Bộ Chính trị không phải tất cả đều cuồng tín, chỉ chăm chăm vơ vét, bòn rút xương máu của nhân dân. Trong số họ còn rất nhiều người có lương tri, lo lắng cho tương lai của đất nước; với một số khác đang phân vân lưỡng lự thì sự thật quá khủng khiếp và ghê rợn của câu chuyện đã khiến lương tâm con người trong họ trỗi dậy và họ dứt khoát lựa chọn một lập trường xử thế đúng đắn, đặt lợi ích quốc gia lên trên quyền lợi cá nhân của mình.) Họ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc buộc phải thay đổi. Vấn đề hiện nay chỉ nằm ở chỗ các phe phái đang tranh giành quyền lực trong giai đoạn quá độ này mà thôi. Song cũng chính vì thế mà tôi lo sợ rằng thành phần bảo thủ trong Đảng sẽ lại trỗi dậy nên thay đổi thì vẫn phải thay đổi nhưng mức độ cải cách và tương lai đất nước thời kỳ hậu cải tổ lại phụ thuộc rất lớn vào nhãn quan và bản lĩnh chính trị của người được giao phó trọng trách lãnh đạo quốc gia trong thời điểm này.
Sau khi ông Mạnh bị mất chức, ông Nguyễn Minh Triết được tạm giao phó vị trí của ông Mạnh. Ông Triết được hầu hết mọi người nhìn nhận là nhân vật có nhiều khả năng nhất trong Bộ Chính trị. Tuy nhiên, điều trớ trêu là ông Triết hiện đang bị nghi ngờ là người ngấm ngầm ủng hộ vợ chồng tôi, mặc dù người ta chỉ đoán già đoán non chứ không có bằng chứng cụ thể gì cả.[52] Ngoài ra, ông Triết cũng bị đưa vào tròng trong chuyện “làm ăn” với ông Nông Đức Mạnh và ông Hoàng Trung Hải, như tôi đã nhận định trong phần đầu của THƯ TỐ CÁO (ngay trước PHẦN BỔ SUNG I). Điều này thì chính ông Triết đã chủ động thừa nhận với Bộ Chính trị và Ban Chuyên án - ông còn đề nghị sẽ trả lại cho ngân sách Nhà nước hoặc ủng hộ người nghèo số tiền sai phạm đó. Ông cũng nói là chẳng qua ông bị ông Mạnh và ông Hải lừa vào tròng thôi, và những gì ông nhận được chẳng thấm tháp vào đâu so với số tiền chui vào túi hai ông này.[53] Tuy ông Triết có sai phạm nhưng ông đã dũng cảm thừa nhận để khai mào cho cuộc điều tra nhằm vào ông Mạnh, ông Dũng, ông Hải nên người ta có thể bỏ qua cho ông[54], dù vẫn không thiếu kẻ coi đấy là điểm yếu của ông để tấn công. Song vấn đề cốt lõi lại nằm ở chỗ, nhiều người muốn gạt ông Triết vì họ sợ ông này sẽ tiến hành cải tổ triệt để, không có chỗ cho họ trong cơ cấu quyền lực mới. Chính vì thế mà người ta đã cố tình “giam” vợ chồng tôi suốt thời gian qua để tìm hiểu xem liệu có phải ông Triết đang đứng sau lưng vợ chồng tôi hay không. Ngoài ra, chuyện ông Triết làm ăn với ông Mạnh và ông Hải cũng bị ông Hải ghi lại chứng cứ. Do đó, ông Triết - người đã dũng cảm thừa nhận sai phạm và đứng ra làm nhân chứng trong câu chuyện của vợ chồng tôi, đồng thời còn đốc thúc công tác điều tra một cách quyết liệt - bị ông Mạnh và ông Hải (cùng tay chân của họ) phản đối mạnh mẽ nhằm mục đích trả thù hành động chính trực của ông. Thậm chí nếu ông Triết được giao phó quyền lực, [người của] ông Hải cũng có thể tung chứng cứ lên mạng hòng triệt hạ uy tín của ông Triết (tuy nhiên, nếu Bộ Chính trị quyết định thì ông Hải cũng không dám, nên đây không phải là lý do chủ yếu mà theo tôi chỉ là cái cớ cho những kẻ muốn gạt ông Triết thôi). Chính vì những lý do nêu trên mà ông Triết vẫn chưa được chính thức trao cho vị trí của ông Mạnh. Đồng thời, Bộ Chính trị cũng đã bỏ phiếu quyết định không công khai vụ việc này và duyệt chi cho vợ chồng tôi 3 tỷ USD, coi như một sự “đền bù” cho những gì vợ chồng tôi đã phải chịu đựng cũng như “tưởng thưởng” cho hành động dũng cảm của tôi. Họ cũng yêu cầu ông Mạnh, ông Dũng, ông Hải phải chi một phần số tiền đó cho vợ chồng tôi, vì ngân quỹ trung ương có hạn.
Sau Hội nghị BCHTW lần thứ X, các phe phái (mà theo nhận định chủ quan của tôi là của các ông Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang, Tô Huy Rứa [Phạm Quang Nghị], Nguyễn Phú Trọng [Phạm Gia Khiêm]) vẫn không thể đạt được thoả hiệp về vấn đề quyền lực. Hơn nữa, những thuộc hạ theo đường lối bảo thủ, phản động của ông Mạnh vẫn còn trong Bộ Chính trị và Ban Chấp hành TW nên chắc chắn đang ra sức cản trở con đường dân chủ hoá của đất nước. Quá bức xúc và ngán ngẩm, ngày 23/7/2009, ông Triết đã đệ đơn từ chức và xin ra khỏi Đảng luôn, đồng thời yêu cầu Bộ Chính trị chuyển cho vợ chồng tôi số tiền 3 tỷ USD. Chính vì thế mà dịp kỷ niệm ngày thương binh liệt sỹ 27/7 vừa qua, sự kiện chính diễn ra bên dòng sông Thạch Hãn, thị xã Quảng Trị, được truyền hình trực tiếp trên VTV1 vào tối 26/7 đã không có sự hiện diện nào của ba vị đứng đầu Nhà nước. Ông Mạnh thì chẳng ai coi ra gì rồi[55]; ông Triết đã từ chức nên ông không vào Quảng Trị mà thay vì thế ông đến Trà Vinh; ông Dũng được giao nhiệm vụ vào dự lễ nhưng vì xấu hổ với lãnh đạo tỉnh Quảng Trị[56] nên cũng không dám vào mà lại mò về Cần Thơ. Bộ Chính trị đành phải “chữa cháy” bằng cách bố trí hai vị Uỷ viên BCT là ông Hồ Đức Việt, Trưởng Ban Tổ chức TW, và ông Phạm Quang Nghị, Bí thư Thành uỷ Hà Nội, vào dự lễ.
Sau khi ông Triết từ chức, các phe phái còn lại tiếp tục lao vào một cuộc chiến tranh giành quyền lực mới. Nhưng cuối cùng thì chẳng ai chịu ai cả. Ngoài ra, người ta cũng nhận thấy là trong số họ chẳng ai có đủ tài năng và bản lĩnh bằng ông Triết. Họ lại yêu cầu ông Triết trở lại nắm quyền lực. Ông Triết đưa ra yêu cầu là trước hết người ta phải chuyển cho vợ chồng tôi 3 tỷ USD như Bộ Chính trị đã quyết định rồi mới tính chuyện nhận lại nhiệm vụ. Ngày thứ Bảy, 1/8, vợ chồng tôi được thông báo là thứ Năm tuần tới, 6/8, người ta sẽ chuyển cho chúng tôi 3 tỷ USD (tất nhiên, trước đấy họ sẽ mời tôi ra Hà Nội làm việc với họ đã). Tuy nhiên, mọi chuyện lại không đơn giản như thế. Khi kiểm tra lại ngân quỹ bí mật của trung ương thì người ta mới phát hiện ra là hầu bao của Đảng gần như không còn gì. Hoá ra, ông Mạnh cùng với vài ba vị Uỷ viên BCT khác đã giả mạo giấy tờ vét sạch công quỹ từ bao giờ. Đến đây mọi chuyện lại lâm vào bế tắc. Chưa có tiền chuyển cho vợ chồng tôi đã đành nhưng một số người vẫn nuôi ý đồ gạt ông Triết cũng muốn nhân chuyện này để kéo dài tình trạng “lơ lửng” của vợ chồng tôi hòng có thêm thời gian điều tra, đồng thời hy vọng vợ chồng tôi sẽ hết kiên nhẫn mà “khai” ra ông Triết. Bởi nếu họ có thiện chí thì chỉ cần chuyển trước cho vợ chồng tôi một ít là được, chứ chúng tôi đâu có đòi hỏi gì. Đối với tôi, điều quan trọng hơn cả là việc chế độ này sụp đổ và một nền dân chủ đích thực sẽ xuất hiện ở Việt Nam.[57]
Nói đúng ra, không phải là họ hoàn toàn không có thiện chí. Ngày 10/8/2009, một vị lãnh đạo Công an tỉnh Quảng Trị (tôi không tiện nêu tên để tránh phiền phức cho ông) cùng với 5 sỹ quan Công an ở Hà Nội đã đưa vợ tôi vào Bệnh viện Trung ương Huế khám (mặc dù điều này cũng chỉ xẩy ra sau khi tôi đã gửi THƯ TỐ CÁO - với nội dung từ đầu đến PHẦN BỔ SUNG V - cho Bộ Chính trị và tỏ ý lo lắng về sức khoẻ của vợ.) Kết quả chụp CT ở đầu cho thấy não của vợ tôi đã phát triển bình thường trở lại (dù vậy cũng không thể chủ quan). Còn chứng hay nhức đầu, chóng mặt gần đây là do bị rối loạn tiền đình. Một ông bác sỹ nhận xét là trường hợp chảy máu não như vợ tôi hầu hết đều chết, sống sót được như cô ấy là điều thần kỳ. Không hiểu ông này có biết chuyện gì về vợ chồng tôi hay không mà ông còn cho biết thêm rằng trường hợp của vợ tôi mới chỉ là ca thứ hai trên thế giới. Vợ tôi bộc bạch với vị bác sỹ rằng cô ấy sống được là vì “tui còn nợ chồng tui nhiều quá, chưa trả hết được.”
Quá bức xúc với thái độ lấp lửng của những người trong Bộ Chính trị, ngày 13/8/2009, tôi đã gửi THƯ TỐ CÁO mới (từ đầu cho đến PHẦN BỔ SUNG V) cho Ban Chấp hành TW Đảng (qua các địa chỉ email: togiactoipham@canhsat.vn; gopycanhsat@canhsat.vn; toasoanwebcp@chinhphu.vn; dangcongsan@cpv.org.vn; toasoan@nhandan.org.vn; webmaster@qdnd.vn) kèm theo những lời đề đạt sau:
Tôi đề nghị quý vị không được tiếp tục đem vận mệnh của dân tộc ra làm "con tin" trong cuộc chiến tranh giành quyền lực của quý vị. Ai nhận lãnh trách nhiệm chèo lái con thuyền đất nước trong giai đoạn này cũng đồng nghĩa với việc gánh vác một sứ mệnh lịch sử hết sức nặng nề và vô cùng trọng đại, vì thế nó không dành cho những kẻ mà tài năng và bản lĩnh là có hạn, chỉ nhăm nhăm "đục nước béo cò." Nếu không giải quyết cuộc khủng hoảng chính trị này một cách êm thấm, vốn đòi hỏi cả sự chung lưng đấu cật lẫn sự hy sinh [quyền lợi] của nhiều người trong số các quý vị, thì một cuộc hoả chiến [tranh giành lãnh thổ] với thế lực bành trướng phương Bắc là rất dễ xẩy ra, đồng thời sẽ kéo theo nhiều hệ luỵ vô cùng tai hại cho tương lai đất nước. Và khi ấy, ai nếu không phải là chính các vị sẽ phải chịu trách nhiệm trước lịch sử, trước dân tộc?
Nếu số ít (Bộ Chính trị) không quyết định được thì số đông (Ban Chấp hành TW Đảng) phải bỏ phiếu quyết định. Thà giao quyền lực cho một kẻ tuy không cùng vây cánh với mình nhưng có tài năng và bản lĩnh rồi chấp nhận rời khỏi thuyền một cách lành lặn còn hơn là giao nó cho một kẻ tuy cùng vây cánh nhưng tài năng và bản lĩnh lại hạn chế để rồi cùng chết chìm cả đám (ông Nông Đức Mạnh há chẳng phải là một tấm gương nhãn tiền hay sao?). Âu đấy cũng là một sự hy sinh cao cả và cần thiết của quý vị mà chắc chắn lịch sử sẽ không quên ghi nhận.
Tôi chưa tung bức thư tố cáo này lên một lần nữa không phải là do tôi cố chờ đợi để nhận được một sự "đền bù" nào đấy đâu, và giả sử có như vậy thì chẳng qua tôi cũng tự nhận cho mình một trọng trách xã hội lớn lao với những gì được gọi là đền bù ấy thôi. Tuy nhiên, sự kiên nhẫn của tôi cũng chỉ có giới hạn. Tôi đã rơi vào tình thế khó khăn, bức bối và ức chế thần kinh này quá lâu rồi.
Vài lời hồ đồ nhưng xuất phát từ tâm can của tôi, rất mong được quý vị suy xét kỹ.
Trân trọng cám ơn,
Quảng Trị, 13/8/2009
Lê Anh Hùng
Sau một tuần chờ đợi mà không có kết quả gì, tối ngày 19/8 tôi đã suy nghĩ rất kỹ và sáng ngày 20/8/2009, tôi quyết định tung THƯ TỐ CÁO (từ đầu cho đến PHẦN BỔ SUNG V) lên mạng lần nữa.
Những ai tinh ý đều có thể nhận thấy màn kịch lại được tiếp diễn một cách vụng về. Từ ngày 12÷19/8, làm việc với một số tỉnh Tây Bắc rồi vào Cà Mau và Lâm Đồng, chẳng có bóng dáng một vị bộ trưởng nào tháp tùng ông Dũng cả. Thế nhưng sau khi sau khi THƯ TỐ CÁO được tung lên vào ngày 20/8 (trong đó nêu rõ là ông Dũng coi như đã mất hết quyền lực, chỉ đang đóng kịch che mắt thiên hạ thôi) thì ông ta lại đột nhiên được tháp tùng bởi hai vị Bộ trưởng (Vũ Văn Ninh và Vũ Huy Hoàng) và một vị Uỷ viên TW Đảng khác (Nguyễn Bắc Son, Phó Ban Tuyên Giáo TW) trong chuyến về thăm và làm việc tại Thái Nguyên ngày 22/8. Cứ như không có chuyện gì xẩy ra cả! (Tất nhiên, danh chính ngôn thuận, ông ta vẫn là Thủ tướng Chính phủ; đồng thời ngoài những người Bộ Chính trị, Bộ Công an cùng một số vị lãnh đạo cấp cao khác thì không nhiều người biết được thực hư câu chuyện. Ngoại lệ duy nhất là ở Quảng Trị, nơi mà hầu hết các vị chức sắc của tỉnh đều biết rành rẽ câu chuyện. Hơn nữa, so với ông Mạnh và ông Hải, tội lỗi của ông Dũng cũng “khiêm tốn” hơn, đồng thời ông cũng tỏ thái độ hợp tác hơn với Ban Chuyên án.)
Ngày 22/8, tôi gửi TÂM THƯ cho Ban Chấp hành TW Đảng.
Kính gỬi: Các vỊ UỶ viên BỘ Chính trỊ, UỶ viên TW ĐẢng
Trước hết xin gửi tới các quý vị lời chào kính trọng.
Câu chuyện của tôi chắc quý vị đều biết hết cả rồi, tôi không cần phải nhắc lại nữa. Tôi chỉ xin trình bày mấy ý hầu mong quý vị thấy được thiện chí của tôi trong câu chuyện mà thôi. Vì lợi ích quốc gia, tôi đã cố kiên nhẫn chờ đợi quý vị dàn xếp và tìm ra giải pháp tối ưu cho đất nước. Nhưng tôi đã vô cùng thất vọng và hết sức bức xúc.
Trong quá trình chờ đợi, vợ tôi đã phải làm việc đến kiệt sức trước sự soi mói một cách dửng dưng và vô cảm của quý vị. Đến mức cô ấy cảm thấy khiếp đảm khi nghĩ đến chuyện cứ mỗi buổi sáng là phải đến cái khách sạn (Bảo Minh)[58] ấy để làm đủ thứ việc như lễ tân, dọn dẹp... Một mình, tám phòng khách sạn, với đủ hạng người, đủ loại công việc, kể cả những thứ nhớp nháp và đáng ghê tởm nhất trên đời này. Trong khi đó, vợ tôi lại đang phải mang đủ kiểu bệnh tật trong người (ngoài di chứng của bệnh cháy máu não có thể bị tai biến bất cứ lúc nào, cô ấy còn bị thấp huyết áp, rối loạn tiền đình, hội chứng trào ngược dạ dày [cứ ăn vào là nôn ra]...). Chắc quý vị cũng đã nắm được kết quả khám bệnh của vợ tôi ở Bệnh viện Trung ương Huế ngày 10/8 vừa rồi. Ngoài ra, một nách cô ấy còn phải nuôi hai đứa con thơ, đều đang bú sữa mẹ, chưa kể một ông chồng thất nghiệp cùng cả gánh nặng bên nhà ngoại nữa.
Tình trạng đó kéo dài từ ngày 27/3 cho đến ngày 13/6, lúc mà vợ tôi tưởng như sắp kiệt sức thì quý vị thông báo là sẽ chuyển trước cho vợ chồng tôi 1 tỷ VNĐ để tạm ổn định cuộc sống. Vợ tôi mừng như chết đuối vớ được cọc, liền xin nghỉ làm ở khách sạn Bảo Minh. Nhưng hoá ra đó cũng chỉ là lời hứa hão. Lại nỗi lo cơm áo hàng ngày. Không còn cách nào khác, vợ tôi buộc phải đi tiếp khách ở các bàn nhậu để có tiền, hết trưa lại tới chiều, thường phải tới 8, 9h tối mới về đến nhà. Cả ngày miệng lúc nào cũng phả ra mùi rượu bia. Và con tôi lại phải bú thứ sữa mẹ lẫn rượu lẫn bia đó. Điều này nguy hiểm đến thế nào đối với trí tuệ và thần kinh của các cháu thì hẳn quý vị cũng đều đã biết, đặc biệt là khi tình trạng đó lại cứ kéo dài hết ngày này qua ngày khác. Tất cả những nỗi truân chuyên cực nhọc đó, vợ tôi đều cắn răng chịu đựng mà không hề mở miệng than phiền với tôi. Bởi cô ấy sợ tôi lo lắng quá rồi bức xúc không hay. Trong đầu cô ấy chỉ có chồng con thôi, không tồn tại những khái niệm như “nổi tiếng,” “thay đổi chế độ”... hay thậm chí dù chỉ là một ý niệm nhỏ nhất về cái gọi là “trả thù.” Còn với tôi thì trước tình cảnh ngột ngạt, khó khăn và bức xúc đó, ở tù cũng còn sướng hơn chán.
Sau lần thất hứa đầu tiên vào ngày 14/6 đó, quý vị còn hứa hẹn thêm một vài lần theo kiểu ấy nữa mà lần gần đây nhất là vào ngày thứ Năm, 6/8 vừa rồi. Tất cả cuối cùng đều chỉ là hứa hão khiến sự kiên nhẫn của tôi ngày càng cạn kiệt.
Tôi biết, tất cả những chuyện đó chẳng qua là vì quý vị muốn tìm hiểu xem sau lưng chúng tôi có ai hay không. Song chính quý vị cũng hiểu, giả sử có ai đó ủng hộ vợ chồng tôi thì chẳng phải là họ đã dũng cảm đứng về phía lẽ phải hay sao? Và nếu vậy thì cho dù có chết đói chúng tôi cũng không thể nào bán đứng họ được. Tự lương tâm chúng tôi cắn rứt đã đành mà chính bản thân quý vị cũng chẳng coi vợ chồng tôi ra gì. Tôi mong quý vị đừng có đoán già đoán non làm gì nữa, điều đó vừa lố bịch vừa vô ích, chỉ tổ tạo cơ hội cho những kẻ đục nước béo cò thôi.
Trước khi tung THƯ TỐ CÁO lên mạng ngày 20/8 vừa rồi, ngày 13/8 tôi đã gửi thông điệp cuối cùng cho quý vị, những mong thúc giục quý vị sớm tìm ra giải pháp tốt nhất cho đất nước. Nhưng cuối cùng, vì lợi ích cá nhân của vài ba người trong số quý vị mà thiện chí đó lại một lần nữa bị phớt lờ, lợi ích quốc gia bị coi như rơm như rác.
Thái độ thiện chí và sự kiên nhẫn của tôi hoàn toàn không phải là vì tôi không còn cách nào khác. Nếu quý vị không sớm dàn xếp vụ việc, tìm ra giải pháp tối ưu cho đất nước, tôi sẽ lại tung THƯ TỐ CÁO lên mạng lần nữa. Và lần này tôi sẽ liên lạc trực tiếp với các cơ quan truyền thông trong và ngoài nước, đồng thời sẽ tiến hành tuyệt thực cho đến khi nào quý vị phải đưa vụ việc ra xét xử công khai mới thôi. Trong trường hợp tôi mà có mệnh hệ gì thì bạn bè tôi ở trong và ngoài nước sẽ lên tiếng. Tôi biết, trong Ban Chấp hành TW Đảng cũng như trong Bộ Công an có rất nhiều người sẵn sàng đứng về phía lẽ phải, ủng hộ vợ chồng tôi. Chính ông Lê Hồng Anh từng nói với vợ tôi rằng “đến hơn 70% người dân Việt Nam muốn chế độ này sụp đổ.” (Tôi đồ rằng ông Lê Hồng Anh còn tỏ ra quá “khách khí” ở đây thôi. Con số 70% kia chắc phải là 70% số đảng viên Đảng CS mới đúng, chứ với một người dân bình thường thì hoạ có vừa đui vừa điếc mới không cảm nhận được những điều bất công, ngang trái ở ngay xung quanh mình.) Một cán bộ điều tra trong Ban Chuyên án cũng đã nói với vợ tôi vào ngày 17/8 vừa rồi rằng “cháu đừng lo lắng gì cả, bây giờ sau lưng vợ chồng cháu toàn là những kẻ mạnh.” Chắc quý vị hiểu rõ thực tế đó hơn ai hết.
Vì lợi ích quốc gia, vì tương lai sống còn của dân tộc, rất mong quý vị sớm gạt bỏ mâu thuẫn, chung lưng đấu cật, hy sinh quyền lợi cá nhân, đồng tâm nhất trí đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng chính trị này để sải những bước chân vững chắc trên con đường tự do, dân chủ mà nhân loại tiến bộ đã lựa chọn. Đấy cũng chính là đòi hỏi bức thiết của nhân dân, của thời cuộc. Đừng để sau này, khi đã về hưu rồi, lại phải ngậm ngùi hoài niệm về những ngày xưa mà hối tiếc, mà tự dằn vặt. Nếu hành động theo đúng đạo lý và lương tâm của mình thì không bao giờ quý vị phải cảm thấy hối tiếc hay ân hận cả. Lịch sử nước nhà đã đến lúc chuyển sang một trang mới. Ý Trời đã quyết và lòng người đã thuận, xin chớ cưỡng lại làm gì, chỉ tổ chuốc thêm tai hoạ thôi.[59]
Vài lời cạn nghĩ của kẻ hậu sinh, rất mong quý vị bớt chút thời gian suy xét.
Xin trân trọng cám ơn,
Quảng Trị - 22/8/2009
Lê Anh Hùng
Ngày 25/8/2009, tôi cũng gửi thư cho Diệp, thư ký của con gái ông Dũng, để thể hiện quan điểm của mình.
Không ai đánh kẻ đã ngã ngựa. Nhưng nếu họ vẫn cứ cam tâm làm những con rối, những diễn viên bất đắc dĩ, hòng phục vụ cho mưu đồ của một số kẻ vẫn đặt lợi ích của cá nhân, của Đảng lên trên lợi ích quốc gia, đồng thời vẫn cố tình "giam lỏng" vợ chồng tôi như hiện nay, thì tôi sẽ chưa tha cho họ.[60] "Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà," vốn liếng tiếng Việt của tôi xem ra vẫn còn dồi dào chán. Đúng là một lũ ngu đần. Lịch sử luôn công bằng, sau này khi mọi chuyện đã thành sách, thành sử thì đời con đời cháu cũng còn mang mối nhục trong lòng, chưa nói gì đến bản thân họ trong mấy chục năm cuối đời.
Chao ôi, giá như ông Dũng khảng khái tuyên bố: "Thôi, ta quyết không làm con rối trong tay các người nữa; nếu các người không chịu giải quyết mâu thuẫn trên tinh thần đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, ta sẽ quyết không chường mặt trước ống kính camera để đóng kịch cho các người nữa; tội của ta làm ta chịu, và thế là đủ rồi..." Điều đó sẽ tốt biết bao cho hình ảnh của ông sau này, nhất là trong bối cảnh mà thành phần bảo thủ trong Đảng đang có cơ trỗi dậy, kẻ thù phương Bắc đang nhăm nhe lợi dụng cuộc khủng hoảng ở VN để gây chiến tranh cướp lãnh thổ.
Tôi hy vọng các vị Uỷ viên Trung ương Đảng sẽ tỏ ra sáng suốt, công tâm và thực tế khi đứng trước quyết định lựa chọn người lãnh đạo quốc gia trong giai đoạn này. Bất kỳ nhân vật nào được “chọn mặt gửi vàng” cũng phải hội đủ tài năng, bản lĩnh và hơn hết là phải đặt lợi ích quốc gia lên trên lợi ích của cá nhân, của phe phái và của chính Đảng CSVN. Bởi đây là một bước ngoặt hết sức trọng đại trong tiến trình lịch sử của dân tộc, không chỉ giúp giải quyết những vấn đề bức thiết trước mắt mà nó còn đặt nền móng cho sự nghiệp phát triển bền vững và lâu dài của đất nước.
Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Sự dũng cảm, tinh thần trách nhiệm và thái độ không khoan nhượng của ông Triết nhằm góp phần vạch mặt và ngăn chặn bàn tay tội ác của liên minh ma quỷ kia, dẫn đến một sự thay đổi ngoạn mục không đổ máu, có thể nói, đã đủ để cho phép ông chiếm một vị thế xứng đáng trong ngôi đền thiêng của lịch sử.[61] Cho dù lần đệ đơn từ chức ngày 23/7/2009 vừa rồi hoàn toàn không phải là một hành động “làm mình làm mẩy” gì, chắc chắn ít nhiều ông cũng không tránh khỏi cảm giác cay đắng khi biết mình hơn hẳn người khác một cái đầu mà vẫn bị những kẻ coi quyền lợi Tổ quốc như rơm như rác gạt bỏ không thương tiếc. Dù vậy, rời khỏi cuộc chơi mà ngẩng cao đầu như ông chắc chắn là vẫn hơn đứt những kẻ còn đang cắm cúi với đủ mọi thủ đoạn chẳng lấy gì làm cao thượng hòng cố kiếm chác trên tấm lưng hằn đầy thương tích của Mẹ Việt Nam, nhất là khi Người lại đang rơi vào cảnh hoạn nạn như hiện nay.[62] Việc trọng đại nhất thì ông đã làm rồi, những việc còn lại, cho dù có quan trọng đến đâu, cũng chỉ là sự tiếp nối thành quả lớn lao ấy của ông mà thôi.
Đây là lần thứ tư THƯ TỐ CÁO được gửi đến tay quý vị. Vậy nên, tôi đề nghị quý vị hãy gạt bỏ những hồ nghi cuối cùng ra khỏi đầu mình. Câu chuyện này hoàn toàn là SỰ THẬT, một sự thật trần trụi và đau đớn. Đất nước này không phải của riêng ai. Một mình tôi cũng chẳng làm nên trò trống gì. Vì vậy, tôi kêu gọi tất cả mọi người, đặc biệt là các vị Uỷ viên TW Đảng, các vị tướng lĩnh và sỹ quan cao cấp trong Quân đội, Công an... muôn người như một hãy cùng lên tiếng vì tương lai của đất nước, vì sự tồn vong của dòng giống Con Lạc Cháu Hồng. Đất nước đang đứng trước bước ngoặt lịch sử lớn lao và tất cả mọi người dân Việt Nam đều cần phải thể hiện trách nhiệm của mình.
Quảng Trị - 31/8/2009
Lê Anh Hùng
PHẦN BỔ SUNG VII
Sau khi tôi tung THƯ TỐ CÁO lên mạng lần gần đây nhất (ngày 31/8/2009[63], kèm theo ảnh chụp scan chứng minh nhân dân và bằng tốt nghiệp đại học), câu chuyện đã nhanh chóng lan đi không chỉ trong nước mà còn ra cả ngoài nước. Tới lúc này thì ngay cả những ai hoài nghi nhất cũng phải hiểu rằng đây không hề là “tác phẩm” nhảm nhí của một kẻ ngông cuồng hay hoang tưởng nào đó. Có lẽ hầu hết mọi người sau khi đọc xong toàn bộ bức thư đều không khỏi bàng hoàng thốt lên: “Không thể tưởng tượng nổi!”[64] Rõ ràng, từ cổ chí kim người ta khó có thể tìm thấy một câu chuyện nào khủng khiếp và li kỳ đến vậy trong bất kỳ một cuốn sách sử hay thậm chí là tiểu thuyết trinh thám nào. Ngoài ra, những tình tiết xúc động của câu chuyện hẳn cũng đã chạm đến trái tim của nhiều người.
Song thực tế mọi chuyện vẫn chưa dừng lại ở đó. Tình hình diễn biến ngày càng phức tạp và gay cấn. Các cơ quan đại diện nước ngoài tới tấp chất vấn Chính phủ Việt Nam về nội dung bức thư cũng như về tình cảnh của vợ chồng tôi. Bởi nếu đây là câu chuyện có thật, nó không chỉ dẫn đến sự sụp đổ của chế độ cộng sản ở Việt Nam mà còn ảnh hưởng to lớn đến cục diện chính trị - an ninh trong khu vực, và từ đó có những tác động nhất định đến tình hình chính trị - an ninh trên thế giới. Bộ Chính trị lại phải cuống cuồng lo đối phó.
Đầu tiên là chuyến vào thăm và làm việc tại Quảng Trị của ông Hoàng Trung Hải diễn ra ngày 5/9/2009. Kế đến, họ phải lo bố trí để vợ tôi tiếp chuyện các đoàn ngoại giao (dĩ nhiên là không thể thiếu các quan chức an ninh, tình báo) của một số nước bày tỏ sự quan tâm đến bức thư tố cáo. Người ta bày cho vợ tôi cách đối đáp trước các câu hỏi của các đoàn ngoại giao, tất nhiên họ cũng không quên hứa hẹn là sẽ sớm thu xếp tiền cho vợ chồng tôi. Đại khái là vợ tôi sẽ trả lời các đoàn ngoại giao rằng một phần câu chuyện là có thật, cô ấy có mối quan hệ “làm ăn” với ba ông kia và họ hứa sẽ cho vợ chồng tôi một số tiền khi vụ việc kết thúc. Nhưng sau khi có một thành viên trong nhóm bị chết, họ đã trở mặt và không chịu chuyển tiền cho vợ chồng tôi. Trên cơ sở đó tôi mới bịa ra một câu chuyện nửa thực nửa hư để tố cáo họ. Thật là mỉa mai, bây giờ thì chính vợ tôi lại phải ngồi “đấu trí” với những tay trùm an ninh và tình báo nước ngoài để giữ “thể diện” cho chế độ chính trị này cũng như đảm bảo an ninh cho đất nước.[65] Càng nghĩ tôi lại càng thấy căm giận trước việc một số người trong Bộ Chính trị vẫn coi lợi ích quốc gia như rơm như rác. Quyền lực và lợi ích cá nhân đã làm cho họ mờ mắt.
Chiều ngày 8/9/2009, vợ tôi tiếp một đoàn ngoại giao của Mỹ (từ hơn 3h đến khoảng 6h). Đoàn gồm 5 người Mỹ (trong đó có một Việt Kiều nói giọng lơ lớ) và một phiên dịch, tại một nhà hàng khá kín đáo ở thị trấn Cam Lộ (Quảng Trị). Ngồi cùng vợ tôi có một vị lãnh đạo Công an tỉnh Quảng Trị (tôi không tiện nêu tên). Sau đó, cô ấy lại tiếp đoàn ngoại giao của Trung Quốc, gồm 5 người Trung Quốc và một phiên dịch người Việt, từ 6h30 đến gần 9h. Trong số 5 người TQ có một người biết tiếng Việt, vì khi đi ra ngoài vợ tôi có thoáng nghe người này trao đổi bằng tiếng Việt với tay phiên dịch. (Riêng với đoàn Trung Quốc thì ngoài vợ tôi không một người nào của phía Việt Nam được phép tham dự.) Cả hai đoàn đều tỏ ra rất lạnh lùng, nghiêm nghị. Thậm chí vợ tôi còn có cảm giác ánh mắt của các thành viên trong phái đoàn TQ như muốn xuyên thủng người cô ấy. Nội dung chủ yếu mà hai đoàn đều hỏi là câu chuyện có thật hay không và tại sao lại như thế. Vợ tôi đối đáp với họ theo như những gì mà các sỹ quan Công an Việt Nam đã “mớm” cho. Đoàn TQ có nhận xét là bịa gì mà bịa khủng khiếp thế, lại còn rất logic nữa, khiến ai cũng phải tin là thật.
Khoảng 4h chiều hôm sau, 9/9, đoàn Trung Quốc lại từ Huế ra gặp vợ tôi (họ về Huế nghỉ ngơi chứ không ở lại Đông Hà). Lần này thì ngoài đoàn TQ còn thêm một đoàn nữa của Mỹ[66]. Hai đoàn cùng gặp vợ tôi một lần, cả thảy mười mấy người (trong đó có hai phiên dịch người Việt do các đoàn tự bố trí). Địa điểm vẫn là một nhà hàng ở Cam Lộ. Phía Việt Nam không ai được phép ngồi dự. Một mình vợ tôi ngồi “đấu trí” với những quan chức an ninh sừng sỏ của TQ và Mỹ. Lại vẫn những câu hỏi cũ, và vợ tôi vẫn lập lại những câu trả lời mà Công an Việt Nam đã “mớm” cho. Mấy vị người Mỹ thì tỏ vẻ nhã nhặn, chủ yếu chỉ ngồi nghe và quan sát; còn mấy tay người TQ thì tỏ ra rất ghê. Thỉnh thoảng họ lại còn đập bàn doạ vợ tôi. Vợ tôi thản nhiên nói, “Đừng đập bàn, đừng quát nạt. Đây yếu tim xỉu liền đó.” Họ khen cô ấy là “thông minh, biết chuyển đề tài, lèo lái câu chuyện một cách khéo léo” (tất nhiên, những lời khen như thế cũng có thể chỉ là “võ” của họ mà thôi). Họ hỏi vợ tôi là “phải gặp gỡ rồi bị thẩm vấn thế này thì có sợ gì không?” Cô ấy liền ra dấu những cử chỉ tục tĩu với tay phiên dịch rồi bảo anh ta dịch lại rằng “Còn lâu đây mới sợ!” khiến họ chỉ còn biết lắc đầu, bảo là chưa từng gặp một người nào như cô ấy cả. Phái đoàn TQ nói rằng họ sẽ còn ở lại đây để chờ câu trả lời khác từ phía vợ tôi, vì họ nói “câu chuyện rất logic, khó có thể bịa được.” Họ đề nghị cô ấy hợp tác với họ. Vợ tôi nói, “Câu chuyện có thật đâu mà hợp tác. Phải có gì thì mới hợp tác được chứ.” Đến khoảng 7h, cuộc gặp với hai đoàn này mới kết thúc.
Ngoài ra, kể từ đó cho đến ngày 18/9, vợ tôi còn tiếp một số đoàn ngoại giao của các nước như Pháp, Đức, Anh, Malaixia, Hàn Quốc… Nội dung trao đổi chủ yếu vẫn xoay quanh những câu hỏi như tôi trình bày ở trên và vợ tôi vẫn đối đáp như thế. Tuy nhiên, hầu hết các đoàn đều không tin vào những gì mà cô ấy nói. Họ thừa biết, câu chuyện không thể đơn giản như thế được.[67]
Trưa 10/9, vợ tôi tiếp một đoàn thuộc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, gồm 6 người. Địa điểm cũng là một nhà hàng ở thị trấn Cam Lộ. Vợ tôi không biết tên một ai nhưng cho biết họ toàn là những người mà cô ấy đã nhìn thấy trên TV. Họ nói rằng lần thứ nhất tôi tung thư tố cáo lên mạng (21/4/2008), họ không tin; họ đã định đề nghị bắt nhưng sau lại sợ tôi làm um lên nên mới thôi. Vì thế họ nghĩ chỉ cần yêu cầu Công an Quảng Trị gọi tôi lên làm việc là được. Lần thứ hai (12/3/2009), họ cũng không tin. Mãi đến ba lần cuối cùng (20/8; 27/8; 31/8) họ mới tin và mới nắm được sự việc. Họ chỉ còn biết động viên vợ chồng tôi “cố gắng.” (Trong mấy ngày đầu tiên của phiên họp thứ 23, khai mạc ngày 9/9, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội họp kín để “nghe báo cáo và thảo luận về giám sát chuyên đề việc thực hiện đấu tranh phòng, chống tham nhũng và phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng” nhưng thực ra là chỉ bàn về câu chuyện của vợ chồng tôi thôi.)
Ngày 19/9, hai đoàn ngoại giao của Thuỵ Sỹ và Na Uy yêu cầu gặp vợ tôi nhưng cô ấy từ chối không gặp. Vợ tôi không muốn làm việc đó trong khi tôi còn đang phải khất nợ tiền phòng khách sạn và cô ấy đang phải chật vật kiếm tiền nuôi con hàng ngày. Thật không thể nào chấp nhận được. (Điều này phần nào cũng cho thấy bộ máy thượng tầng đang lâm vào tình thế bế tắc, không lối thoát.)
Xin quý vị đừng vội nghĩ là chúng tôi muốn dùng bức thư này để “làm tiền” Nhà nước, mặc dù sau tất cả những gì đã xẩy ra, ai cũng hiểu rằng chúng tôi hoàn toàn có quyền đòi hỏi quyền lợi cho bản thân mình. Đối với vợ chồng tôi, cũng như với bất kỳ ai khác, tiền là rất quan trọng, nhất là khi chúng tôi lại đang rơi vào cảnh khó khăn như hiện nay. Nhưng nếu chỉ vì tiền thì chắc chắn tôi đã chẳng ngại ngần gì mà không “ngậm miệng” để được nhận số tiền khổng lồ 7 tỷ USD mà người ta từng hứa hẹn trước khi tôi tung THƯ TỐ CÁO lên mạng lần thứ hai (ngày 12/3/2009), hoặc số 300 triệu Euro mà trước đấy ba ông kia đã đề nghị chuyển cho vợ chồng tôi vào cuối năm 2008. Đối với tôi, tiền rất quan trọng nhưng vẫn còn nhiều thứ khác quan trọng hơn và chắc chắn tiền bạc không phải là tất cả.[68] Tôi nghĩ, nhiều người ở địa vị của tôi cũng sẽ hành xử như vậy thôi.
Còn lý do tại sao chúng tôi lại không tiếp tục tung thư lên mạng rồi đòi hỏi xét xử công khai vụ việc để cho chế độ này nhanh chóng sụp đổ cũng rất đơn giản.[69] Việt Nam đang đứng trước những thách thức nghiêm trọng về an ninh đối với một bộ phận lãnh thổ quốc gia trên Biển Đông là quần đảo Trường Sa, nhất là khi gần đây Trung Quốc đã tỏ rõ tham vọng bành trướng đã kìm nén bấy lâu của mình. Ai đó có thể cười khẩy rồi vứt bức thư của tôi vào sọt rác đồng thời không quên kèm theo một câu chửi đổng chứ với các tay trùm an ninh ở Bắc Kinh thì ngay từ khi bức thư được tung lên mạng lần đầu tiên họ đã không ngây thơ mà làm vậy. Và cuộc khủng hoảng chính trị ở Việt Nam hiện nay (nếu có) sẽ là thời cơ lớn đối với họ, nhất là khi họ thừa hiểu rằng một khi đã hoàn toàn lột xác, Việt Nam chắc chắn sẽ không còn là một nước chư hầu ngoan ngoãn, bạc nhược như xưa nữa. Ngoài ra, như tôi đã nhận định trong các phần trước, một khi vụ việc đã bị phanh phui, cho dù chỉ là trong nội bộ Bộ Chính trị và một số lãnh đạo cao cấp khác, ai cũng hiểu rằng một sự thay đổi lớn lao về mặt thể chế là thực tế không thể tránh khỏi. Hơn nữa, như quý vị có thể dễ dàng nhận thấy, nếu quá trình chuyển tiếp diễn ra một cách êm thấm, đất nước sẽ được lợi cả về mặt kinh tế - xã hội lẫn an ninh - quốc phòng. Chúng tôi đã hợp tác tối đa với họ nhằm đạt được mục tiêu tối cao đó nhưng tất cả những gì mà chúng tôi nhận được chỉ là con số không tròn trĩnh.
Điều lo ngại duy nhất của tôi là nếu thành phần bảo thủ trong Đảng lại trỗi dậy (trong đó phần lớn là tay chân của ông Mạnh và ông Hải[70]) thì dù thay đổi là điều không tránh khỏi song cái tâm và cái tầm của họ chắc chắn sẽ không hứa hẹn một tương lai sáng sủa cho Việt Nam. Điều đó có nghĩa là chừng nào mà vợ chồng tôi vẫn còn trong tình trạng “lơ lửng” như hiện nay, chừng đó cuộc tranh chấp quyền lực giữa phái cấp tiến và phái bảo thủ trong Đảng còn chưa ngã ngũ, Bộ Chính trị còn chưa tìm ra được lối thoát cho cuộc khủng hoảng này, đồng thời một số vị uỷ viên Bộ Chính trị thuộc thành phần bảo thủ vẫn tiếp tục đối xử với vận mệnh đất nước như thể là “con tin” trong tay họ. Và khi ấy, tôi vẫn còn có đầy đủ lý do để tiếp tục tung thư tố cáo lên mạng.[71] Ngoài ra, theo tôi được biết, hiện nay câu chuyện đã phổ biến rộng rãi và lan tới mọi tỉnh thành trên toàn quốc; các quan chức cao cấp trong bộ máy nhà nước ở Hà Nội - trung tâm đầu não chính trị của cả nước - hầu như không ai còn chút động lực nào để tiếp tục công việc. Vì vậy, hơn lúc nào hết, những người đang nắm giữ trọng trách của nước nhà cần có những động thái quyết liệt, dứt khoát; Quốc hội cần thực hiện đầy đủ chức trách của mình với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân theo quy định của Hiến pháp; các vị đại biểu Quốc hội cần nêu cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, trước lịch sử; đồng thời giới thức giả Việt Nam cũng cần mạnh dạn lên tiếng, thể hiện rõ ràng chính kiến của mình và vạch ra đường hướng phát triển cho đất nước. Trong trường hợp đó, việc tiếp tục tung bức thư này lên mạng là điều hết sức cần thiết.[72]
Tôi tha thiết kêu gọi cộng đồng quốc tế hãy ra tay giúp đỡ Việt Nam chúng tôi, để trên mảnh đất đã phải hứng chịu nhiều đau thương và bất công này, một nền dân chủ đích thực sẽ xuất hiện, một nhà nước thật sự là “của dân, do dân và vì dân” - như những gì mà Abraham Lincoln từng đề ra cách đây ngót 146 năm - sẽ trở thành hiện thực.[73] Đấy chính là khát vọng lớn lao của cả một dân tộc.
Quảng Trị - 22/9/2009
Lê Anh Hùng
Lưu ý:
Từ PHẦN BỔ SUNG V trở đi, có hai chi tiết mà tôi cần lưu ý quý vị:
(i) việc vợ chồng tôi bán nhà và rơi vào hoàn cảnh khó khăn là vì chúng tôi làm theo âm mưu của ông Nguyễn Minh Triết;
(ii) vụ việc của chúng tôi chưa được đưa ra trước Ban Chấp hành TW Đảng (đây là sự nhầm lẫn của tôi, mãi về sau tôi mới nhận ra điều này).
Quý vị sẽ hình dung ra toàn bộ câu chuyện sau khi đọc kỹ Nhật ký của tôi (kèm theo THƯ TỐ CÁO II, kể từ ngày tôi bán nhà ở Hà Nội, tháng 5/2008, cho đến khi tôi bị bắt vào ngày 25/12/2009 rồi được thả ra vào ngày 24/8/2010).
Hà Tĩnh, 1/2011
Lê Anh Hùng
[1] Ông Hải chính là “hạt giống đỏ” của ông Đỗ Mười.
[2] Sau hội nghị, vợ tôi được Cty Việt Tiến bồi dưỡng cho 3 triệu VNĐ. Dù đang rất túng thiếu nhưng cô ấy vẫn mua gửi cho ông Trường một hộp sâm gần 2 triệu VNĐ để ông bồi dưỡng khiến ông vô cùng xúc động.
[3] Điều này cho thấy đồng tiền của bố mẹ Toại quả có sức mạnh ghê gớm.
Trước đấy, ông Dũng đã từng bố trí cho một vị đại tá Công an (thuộc Công an Tp Hồ Chí Minh) điều tra vụ Toại hiếp dâm một cô gái quê ở Huế. Vị đại tá này cùng với Cường (trợ lý của vợ tôi ở Vinatex) đã về tận Huế gặp cô gái để điều tra và đưa cô gái từ Huế ra Đông Hà gặp vợ tôi. Cả ông và vợ tôi đã động viên cô gái dũng cảm đứng ra tố cáo Toại. Lần ấy, ông còn mua tặng vợ tôi một con báo nhỏ nhồi bông tại một nhà hàng ở thị trấn Cam Lộ. Tuy nhiên, không hiểu sao vụ này về sau lại không thấy ba ông kia nhắc tới nữa.
Khi vợ tôi mới sinh con được đúng 20 ngày, tức ngày 22/11/2006, ông Dũng gọi điện vào gặp vợ tôi rồi bảo cô ấy đến cơ quan ông Đào Duy Thanh để ông nói chuyện cho tiện (chắc ông sợ điện thoại nhà bà ngoại vợ tôi bị nghe lén – thời gian đó vợ tôi không dùng điện thoại di động; mỗi khi liên lạc với các ông kia cô ấy thường tạt vào đâu đó điện thoại cho họ). Vợ tôi lấy máy điện thoại của cơ quan ông Thanh gọi cho ông Dũng và được ông thông báo rằng ông đã cho người bắn tin tới người nhà của Toại là cho Toại chọn một trong 2 phương án. Một là phải chịu chết nếu vẫn cứ cương quyết đòi tìm giết vợ tôi. Hai là phải từ bỏ ý định đó và chấp nhận chức vụ Tổng Giám đốc tại bất kỳ công ty nào mà anh ta muốn. Thời gian ấy, ông Hải thường cười khẩy mỗi khi vợ tôi nhắc đến Toại và nói đại ý, “Thằng này muốn chết thì được chết chứ cỡ nó đã là cái gì!” Nhắc lại như thế không phải để hạ thấp “tầm cỡ” của Toại mà là để mọi người thấy được “tầm vóc” của ông Hải thôi (cũng có thể là do lúc này ông Hải đã dựa hơi được ông Mạnh và ông Dũng rồi).
[4] Tôi lúc ấy không những không hề “băn khoăn” gì mà thậm chí - khi vợ đang nằm trong phòng hậu phẫu - còn bảo mẹ vợ gọi điện cho ông Bùi Đại Thắng để ông Thắng báo tin ra Hà Nội cho mấy ông kia biết.
[5] Tay Trọng có tài hoá trang rất đặc biệt. Vợ tôi kể, có lần anh ta hoá trang, đội tóc giả rồi vào mua quần áo ở quầy hàng do vợ tôi phụ trách ở Tràng Tiền Plaza mà cô ấy không hề nhận ra.
[6] Tôi đã bắt tay vào viết phần đầu câu chuyện này một thời gian sau khi hai vợ chồng chạy vào Đông Hà lánh nạn. Mục đích chính là để cho mọi người trong gia đình tôi biết được thực chất những gì đã xẩy ra với vợ chồng tôi suốt thời gian đó, bởi tôi biết là họ đã nghĩ rất méo mó về vợ chồng tôi (đây một phần là do âm mưu của ông Hải mà cho đến thời điểm ấy vợ chồng tôi vẫn không hề hay biết). Chính ông Mạnh cũng biết chuyện tôi viết bức thư đó và ông từng bảo vợ tôi nói với tôi là hãy cho ông xem qua trước khi gửi cho gia đình đọc. Có lẽ chính vì thế mà khi gặp vợ tôi qua điện thoại ngày 23/6, ông Mạnh cứ khẩn khoản bảo cô ấy về nói với tôi là ông rất mong tôi đừng viết gì tố cáo họ. Thời gian ẩn náu tại thị xã Quảng Trị (từ ngày 19-29/6/2007), tôi mới bổ sung thêm vào câu chuyện những tình tiết “đột biến” mới, bắt đầu từ ngày 19/3/2007, thời điểm mà vợ tôi cho tôi biết được bộ mặt thật của ông Hải. Và khi ấy, tôi cũng không còn cần phải che dấu họ dưới những ký tự ABC như trước nữa.
[7] Trước khi chia tay, ông Dũng có đưa cho vợ tôi 10 triệu VNĐ và nói là ông chỉ còn ngần này thôi. Vợ tôi quá uất ức thốt lên, “Con không cần những đồng tiền bố thí đó!”
[8] Ông Mạnh từng cho vợ tôi biết là thực ra ban đầu thấy cô ấy làm con nuôi ông Dũng và ông Hải nên ông cũng chỉ định nhận vợ tôi làm con nuôi “cho vui” thôi. Không ngờ càng về sau ông lại càng yêu quý cô ấy thật lòng. Ông còn thổ lộ là nhiều lúc ông có cảm giác như thể kiếp trước ông từng “nợ” vợ tôi hay sao ấy.
[9] Ông ta còn cho thấy rõ cái “tầm” của mình khi khẳng định (năm 2005) rằng 30 năm nữa Việt Nam mới có thị trường điện cạnh tranh!
[10] Thực ra trước đấy vợ tôi dự định nếu có thai thì cũng mặc, để đề phòng khi ra nước ngoài khỏi bị Trọng “quấy rầy.”
[11] Vợ tôi biết được điều này vì sau khi cô ấy đã ra nước ngoài, Trọng có một số lần gửi qua mạng cho Trinh (bạn Trọng) file ghi âm các cuộc gặp giữa ông Mạnh, ông Dũng, ông Hải và Trọng. Ông Mạnh và ông Hải rất hăng hái phát biểu còn ông Dũng thì hầu như không nói năng gì.
[12] Mà thực ra là cũng không biết vì khi tôi rời khách sạn Nam Đông vào Đà Nẵng, tôi nói dối vợ là tôi thuê nhà trọ ở ngay Đông Hà. Tôi tin vợ mình nhưng vẫn phải đề phòng những người ở bên cô ấy.
[13] Đến lúc này Trọng mới thú thật chuyện con gái mình đang bị biệt giam.
[14] Trọng gửi tin nhắn vào máy của tôi và khi ấy vợ tôi đang cầm điện thoại của tôi. Cô ấy liền gọi điện thoại lại để kiểm tra cho chắc xem liệu đấy có phải là Trọng thật không.
[15] Vợ tôi có khuyên ông là “bố nên đi tu đi.” Ông nói, “Bố đã giết quá nhiều người rồi, có muốn đi tu cũng không được nữa.”
[16] Vợ chồng tôi đi xem bói thì được cho biết là mạng của vợ tôi không “hạp” với mạng của Thuỷ, hai người ở gần nhau sẽ chỉ dẫn đến tai ương, đặc biệt là cho vợ tôi. Vì thế, tôi định xong vụ này sẽ cắt đứt quan hệ với Thuỷ luôn. Ngoài ra, vợ tôi cũng cho tôi biết là thời gian cô ấy phẫu thuật ở nước ngoài, Thuỷ đã đem lòng yêu tôi, mặc dù chưa bao giờ được gặp tôi mà chỉ biết qua lời vợ tôi kể. Thuỷ từng dự định là nếu vợ tôi mất thì sẽ lấy tôi làm chồng. Thậm chí, sau khi vợ tôi thoát khỏi lưỡi hái của tử thần một cách hy hữu, Thuỷ còn thổ lộ cho cô ấy biết cảm giác “vừa vui vừa buồn” của mình trước chuyện đó. Điều này khiến vợ tôi nhiều lức cũng bực tức với Thuỷ, đặc biệt là thời gian sau phẫu thuật ở London.
[17] Lần đưa con ra Hà Nội ngày 8/11/2007 để theo Trọng ra nước ngoài, vợ tôi đã bắt Trọng đưa con gái của mình ra thề trước trời đất là sẽ không phản bội lại vợ chồng tôi.
[18] Mỗi khi tức giận, vợ tôi thường mắng nhiếc họ không tiếc lời. Cô ấy kể lần chuẩn bị phẫu thuật chảy máu não ở Mỹ, ông Hải gọi điện động viên, “Con hãy chịu mổ đi, các bố phụ con chứ Trời không phụ con đâu.” Vợ tôi vẫn không ngớt lời nguyền rủa khiến ông ta cáu tiết, “Mày muốn chết thì chết mẹ mày đi!” Ông Mạnh thì mỗi lần vợ tôi chửi mắng ông đều nhẫn nhục chịu đựng, vì ông biết ông là người có lỗi. “Con cứ nói hết đi cho hả lòng. Khi nào con nói hết thì bố nói.”
[19] Ông Mạnh chính là người đứng đằng sau giật dây “con rối” Lê Doãn Hợp (người vừa mới chân ướt chân ráo ra Hà Nội đã lên giọng đòi báo chí phải “đi đúng lề đường bên phải”) trong chiến dịch răn đe báo chí đang diễn ra. Ông cũng là người chỉ đạo vụ đưa tướng Phạm Xuân Quắc cùng hai nhà báo Nguyễn Việt Chiến (báo Thanh Niên) và Nguyễn Xuân Hải (báo Tuổi Trẻ) ra toà để ghi nhận “thành tích” đã khiến ông cùng vây cánh một phen khốn đốn qua vụ PMU18 ngay trước thềm Đại hội Đảng CSVN lần thứ X.
Thực ra, trước thềm Đại hội X đã xuất hiện nhiều tiếng nói đòi ông Mạnh phải lượng sức mình mà rút lui. Điều này diễn ra gần như công khai trên một số tờ báo. Tờ An ninh Thế giới Cuối tháng số tháng 3/2006 đăng tải loạt 5 hay 6 bài gì đó về chủ đề này (tuy chỉ dám nói bóng nói gió thôi nhưng cũng khá lộ liễu). Tạp chí Truyền hình số ra đầu tháng 4/2006 đăng bài phỏng vấn Thượng tướng Giáo sư Hoàng Minh Thảo, với nội dung xoáy vào việc tướng Vũ Lăng chấp nhận đứng sang một bên khi thời thế thay đổi để ông Hoàng Minh Thảo lên làm Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên vào đầu năm 1975, từ đó tạo ra bước ngoặt quyết định cho cục diện chiến trường miền Nam. Báo điện tử Vietnamnet còn mở hẳn một diễn đàn kêu gọi “đổi mới lần hai”, đương nhiên đổi mới thì phải bắt đầu từ “người cầm lái” rồi. Xu thế đó cộng với diễn biến phức tạp của vụ PMU18 được tường thuật nóng hổi trên báo Tuổi Trẻ và báo Thanh Niên khiến cho vị thế của ông Mạnh bị lung lay dữ dội. Ông Nguyễn Tấn Dũng trước đấy đã có ý thách thức vị trí của ông Mạnh, vì sau lưng ông Dũng có ông Võ Văn Kiệt và ông Phan Văn Khải, những nhân vật đầy uy tín và đặc biệt rất coi thường ông Mạnh. Ngoài ra, thời điểm đó ông Đỗ Mười bỗng dưng thấy “ngứa nghề” nên lại muốn “lật” ông Mạnh. Tuy nhiên, sự kiện mang ý nghĩa quyết định chính là việc ông Mạnh “bắt tay” được với ông Dũng, mà điều này lại có vai trò không nhỏ của vợ tôi. Một lần vào khoảng tháng 3/2006, ông Mạnh đột nhiên hỏi vợ tôi, “Con thấy ông Dũng là người thế nào?” và tỏ ý than phiền về việc nhiều kẻ đang nhăm nhe chiếc ghế của mình. Vợ tôi khéo léo trả lời cho qua chuyện vì không muốn xen vào mâu thuẫn giữa họ. Trước Đại hội X chỉ vài ngày, ông Mạnh yếm thế và lo sợ đến mức phải bảo vợ tôi (khi đó đang mang bầu 3 tháng) đi tàu ra Hà Nội để thực hiện vai trò sứ giả đoàn kết và đem lại may mắn cho họ. Vợ tôi đã giúp cho ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải trở nên đặc biệt thân thiết với nhau, như chính họ từng thú nhận. Ông Khải đã từng định “nã pháo” vào ông Mạnh ngay trong thời gian diễn ra Đại hội X nhưng sau đó nhờ liên minh hữu hảo Nông Đức Mạnh - Nguyễn Tấn Dũng mà mọi chuyện được giải quyết êm thấm. (Ông Dũng và ông Hải trước khi gặp vợ tôi cũng có quan hệ với nhau nhưng không mặn mà cho lắm - trước đấy ông Dũng vẫn chưa biết là ông Hải đã nắm gáy mình từ lâu.) Ông Dũng tuy dám thách thức vị trí của ông Mạnh nhưng ngay cả chiếc ghế Thủ tướng cũng không phải là thiếu kẻ dòm ngó. Nhờ liên minh này mà vị thế của cả hai đều vững như bàn thạch, ông Mạnh giữ được chiếc ghế Tổng Bí thư còn ông Dũng cầm chắc vị trí Thủ tướng và hầu như chắc chắn sẽ thâu tóm chiếc ghế “2 trong 1” Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước đầy quyền lực tại kỳ Đại hội Đảng lần thứ XI. Nếu Trọng không nhảy vào làm hỏng hết mọi chuyện thì ông Hải cũng không cần phải dở bài “hù doạ” ông Mạnh và ông Dũng để được ngồi vào chiếc ghế Phó Thủ tướng. Ông Nguyễn Thiện Nhân chẳng qua chỉ là lá bài “chữa cháy” vào phút chót của ông Dũng mà thôi, sau khi niềm hi vọng mang tên Hoàng Trung Hải bỗng tắt ngúm. Nhắc lại như thế để quý vị thấy rằng vợ tôi đã thực sự giúp họ rất nhiều. Không phải vợ tôi mang tai hoạ đến cho họ mà chính họ đã đem tai ương đến cho vợ chồng tôi; khi cơ sự xẩy ra, họ đã đối xử với vợ tôi một cách vô trách nhiệm và thiếu đạo đức, kể cả ông Nguyễn Đình Trường và ông Lê Quốc Ân cũng vậy. (Mà vợ tôi nào có cầu cạnh hay dựa dẫm gì họ cho cam, chưa bao giờ cô ấy mở miệng “xin xỏ” gì của họ cả. Thời gian đầu mới làm con nuôi ông Ân và ông Hải, hai ông này cho tiền nhưng vợ tôi đều kiên quyết không nhận, mặc dù lúc đó hai vợ chồng tôi còn rất khó khăn, đang nợ ngân hàng Bắc Á 30 triệu VNĐ. Giai đoạn chúng tôi chạy vào ẩn náu ở Quảng Trị cũng thế, bất chấp tình cảnh phải chạy vạy từng đồng một - do bị ông Hải lừa - và sống chủ yếu nhờ vào lòng tốt của một số người ở Quảng Trị, vợ tôi cũng không hề hé răng than phiền với ông Mạnh hay ông Dũng. Bây giờ mỗi khi nghe ai đó nói tới chuyện nhận làm con nuôi là cô ấy lại rùng mình sởn gai ốc, và nỗi ân hận khôn nguôi của em là đã lỡ đặt chân vào Công ty Việt Tiến.) Trọng dù sao cũng chỉ là một kẻ tham sống sợ chết, như chính Thủy từng nói với vợ tôi và ông Hải hẳn không phải không biết. Chỉ cần tìm cách đặt Trọng vào thế đã rồi (tức bố trí cho tôi “vô tình” gặp được một trong ba ông) thì thế nào lựa chọn của anh ta cũng chỉ là tiền mà thôi - một cái chết với lý do lãng xẹt chắc chắn không phải là lựa chọn của những kẻ như Trọng (xem cách xử sự của Trọng sau khi thoát khỏi địa ngục trần gian ở Quảng Ninh là đủ hiểu về con người anh ta). Với gia sản kếch xù của họ thì dù có bị sứt mẻ đi vài ba tỷ USD cũng chưa thấm vào đâu. Hơn nữa, ở cái xứ sở này còn “ghế” là còn tất cả. Việc họ “sợ” tôi chỉ là một lý do nguỵ biện, bởi họ thừa biết tôi là người thế nào. Cho dù tôi có căm ghét chế độ này đến nhường nào (mà bằng chứng là việc tôi dám “bạo gan” dịch cuốn sách về Friedrich Hayek, triết gia chính trị và xã hội vĩ đại nhất thế kỷ 20, người đả phá chủ nghĩa xã hội mạnh mẽ nhất trên vũ đài học thuật phương Tây) thì tôi cũng không thể nào đạp lên trên những giá trị đạo lý mà mình vẫn tôn thờ để đạt được mục đích cá nhân. Đối với tôi, được làm con nuôi của họ dẫu sao cũng đã là một diễm phúc quá lớn mà mình chưa bao giờ dám mơ tới.
[20] Thời gian vợ chồng tôi ở khách sạn Sao Mai (tháng 7-10/2007), ông Mạnh, ông Hải và Trọng còn hợp tác “làm ăn” với nhau nhiều phi vụ. Vì thế, tội lỗi của họ chắc chắn không chỉ dừng lại ở những gì mà tôi biết.
[21] Mỉa mai thay, tuy là “tấm gương” nhưng cái khoản phong tình lúc “mỏi gối chồn chân” thì cũng như bao “tấm giương” khác; đã thế lại còn không dám thừa nhận con đẻ của mình một cách quang minh chính đại cho đáng mặt “kẻ sỹ” mà lại cứ che che dấu dấu hòng tiếp tục bài đạo đức giả, mị dân. “Nhân vô thập toàn,” thói đời là vậy, song chính cái lối tô tô vẽ vẽ nhằm thần thánh hoá kẻ vỗ ngực tự xưng là “Cha già Dân tộc” một cách trơ trẽn lại càng làm nổi bật thêm nhiều mảng màu tối thui trên bức tranh “tấm gương đạo đức” mỹ miều, khi những sự thật trần trụi lần lượt bị lôi ra ánh sáng. Những kẻ gian dối cuối cùng đều tự chuốc lấy bi kịch cho mình. “Gậy ông đập lưng ông,” có kẻ cuối đời bỗng thấy mình bị “nhốt” đầy ai oán trong chính toà tháp ngà hào nhoáng mà mình từng cố công dựng lên bằng những chất liệu giả dối. Âu đấy mới chính là tấm gương tày liếp cho đời.
[22] Ông Nguyễn Việt Tiến vừa mới thoát khỏi vòng lao lý (28/3/2008), đang hý hửng tính chuyện sớm “giành lại những gì đã mất” thì đùng một cái, bức thư này được tung lên mạng (21/4/2008), ông Mạnh vội co vòi lại, không còn dám ra mặt bảo vệ chiến hữu của mình nữa. Kết quả là ông Tiến bị Ban Bí thư lột sạch mọi chức vụ, đành ngậm ngùi “trở về với máng lợn.” Diễn biến này khiến cả báo chí trong và ngoài nước lẫn “thông tấn xã vỉa hè” đều bị một phen chưng hửng mà chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra làm sao. Điều này cũng phản ảnh đầy đủ thực chất của cái gọi là “nhà nước pháp quyền XHCN” và “quyết tâm chống tham nhũng” như Đảng ta vẫn không ngớt rêu rao, hô hào. Pháp luật chỉ là công cụ trong tay Đảng, là đối tượng không ngừng bị các nhóm lợi ích con trong nhóm lợi ích khổng lồ mang tên Đảng Cộng sản Việt Nam thao túng và vô hiệu hoá hòng trục lợi cho cá nhân và bè đảng của mình.
[23] Ông Đỗ Mười là tác giả của những màn ăn cướp trắng trợn và vô đạo như cuộc “Cải tạo công thương nghiệp XHCN” ở miền Nam sau năm 1975 và cái gọi là Chỉ thị Z30 năm 1983. Gây ra bao tội ác và ấu trĩ đến thế nhưng không hiểu sao ông ta vẫn ngoi lên được ngôi vị Tổng Bí thư, mãi tới hơn 80 tuổi mới chịu rời bỏ “ngai vàng” để lui vào hậu trường sắm vai “thái thượng hoàng” chuyên “chọc ngoáy” và “giật dây” chính trị. Điều này cho thấy ông ta là một kẻ vô cùng nham hiểm, xảo quyệt, không từ một thủ đoạn bẩn thỉu nào (như chính các “đồng chí” của ông ta từng tố cáo). Bàn tay hắc ám của ông ta đã lũng đoạn chính trường Việt Nam ngay từ những năm 1980. Mới đây, tuy đã gần đất xa trời song ông vẫn quyết tỏ lòng nghĩa hiệp, ra tay cứu giúp bọn đàn em xã hội đen khát máu đang hăm he giết người.
[24] Tôi e rằng việc các công ty Trung Quốc xuất hiện tại chiến trường bauxite Tây Nguyên là chuyện không hề ngẫu nhiên chút nào. Với một chủ trương tiềm ẩn nhiều hệ luỵ nghiêm trọng về môi trường, văn hoá, an ninh - quốc phòng... lẽ ra người ta cần phải thông qua Quốc hội, cho dù đấy có là Quốc hội bù nhìn đi chăng nữa.
[25] Thực ra, chỉ cần loại bỏ bộ máy ăn bám (kiêm ăn hại) nào là của Đảng, của Uỷ ban MTTQ Việt Nam, của Đoàn Thanh niên CSHCM, của các cơ quan Đảng trong Quân đội, Công an... là đã có thể tăng đồng lương thực tế cho mỗi người trong bộ máy hành chính Nhà nước lên ít nhất 4 lần – một tiền đề quan trọng để chống tham nhũng, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của các cơ quan công quyền, mở đường cho sự phát triển bền vững của đất nước. Với những gánh nặng như vậy, thử hỏi Việt Nam làm sao có thể “cất cánh” để mà “hoá rồng” cho nổi?
[26] Sau khi tôi tung bức thư lên mạng lần thứ nhất (ngày 21/4/2008), Công an Quảng Trị đã nhận được quyết định bắt vợ tôi do Bộ Công an gửi vào, nhưng rồi người ta đã không thực hiện quyết định đó vì vợ tôi đang mang thai và lại còn nuôi con nhỏ nữa.
Khoảng đầu tháng 7/2008, mẹ tôi điện thoại từ Hà Nội vào cho tôi biết chuyện hôm trước đấy có ba ông sỹ quan công an đến làm việc với bà. Họ còn nói với mẹ tôi là sẽ vào Đông Hà để “làm việc” với tôi. Lúc ấy tôi đã bảo ngay với mẹ tôi rằng người ta chỉ “rung cây doạ khỉ” thôi. Quả nhiên, sau đấy không hề thấy ai từ Hà Nội vào “làm việc” với tôi cả. Sau này tìm hiểu tôi mới được biết, ba tay công an kia chỉ là thuộc hạ của ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải, chứ lúc ấy Bộ Công an không hề cử ai đến điều tra hay làm việc với mẹ tôi cả. Họ muốn đánh động để hù doạ tôi mà thôi.
[27] Sau khi bán nhà vào Đông Hà, vợ chồng tôi mua một ngôi nhà để ở. Ngoài số tiền dôi dư, chúng tôi còn vay thêm ngân hàng để vợ tôi cho vay trả góp. Tuy nhiên, đến gần Tết Kỷ Sửu thì hầu hết số tiền vợ tôi cho vay đều không thu hồi lại được, những người vay tiền bị vỡ nợ do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế. Vợ chồng tôi buộc phải bán nhà cùng một số đồ đạc rồi về tạm tá túc ở nhà bà ngoại vợ.
[28] Ngày 9/3/2009, khi đang ở thăm hai nước Qata và Kuwait, ông Dũng có điện thoại và nói với vợ tôi rằng “biết gì” ông sẽ “khai nấy.” Ông ta không dám nói gì hơn vì thừa biết là vợ tôi đang bị theo dõi. Tuy ông Dũng nói thế để trấn an vợ chồng tôi (rằng ông ta sẽ hợp tác với Ban Chuyên án) nhưng qua đó cũng cho thấy mức độ thành khẩn của ông ta (rõ ràng là ông ta không chỉ biết hết toàn bộ câu chuyện mà, với tư cách là người trong cuộc, ông ta còn biết nhiều hơn thế). Chắc chắn là Ban Chuyên án đã đề nghị ông Dũng liên lạc với vợ tôi, bởi trước khi gặp ông Dũng qua điện thoại, vợ tôi đã nói chuyện với ông Lê Hồng Anh – trong Thư Tố Cáo lần 2, tôi vẫn dành cho ông Dũng sự tôn trọng nhất định đồng thời gửi gắm nhiều hy vọng vào sự thành tâm của ông (người ta hy vọng tôi vì thế sẽ không tung thư lên mạng lần nữa).
[29] Sau Tết Mậu Tý 2008 (thời điểm Trọng vừa thoát khỏi địa ngục trần gian ở Quảng Ninh và buộc ba ông kia phải xì ra 2 tỷ USD nữa để anh ta giao chứng cứ cho), ông Hải từng thú nhận khi vợ tôi khuyên ông ta hãy đi tu đi rằng “bố đã giết quá nhiều người rồi, có muốn tu cũng không được nữa.” Vợ cũ của Trọng mới đây cũng đã bị giết và chắc chắn thủ phạm không ai khác hơn là ông Hải. Về sau, Công an đã phát hiện ra nhiều băng nhóm tội phạm xã hội đen nằm dưới sự điều hành của ông ta. Công an cũng đã lấy mẫu máu của ông ta để xét nghiệm và kết quả cho thấy ông ta là một con nghiện ma tuý. (Dĩ nhiên là ông ta đã có một tiền sử sử dụng ma tuý lâu dài - trước đây ông ta từng có lần nói với vợ tôi là “số ma tuý của bố có dùng cả đời cũng không hết.”)
[30] Lá cờ của Đảng giờ này vẫn đang bay phấp phới ngoài kia chính là nhờ đức hy sinh cao cả của bé. Máu của bé đã tô thắm cho lá cờ vẻ vang của Đảng nhưng oan hồn của bé thì chắc hãy còn lẩn khuất đâu đó ở mạn Đông Bắc của Tổ quốc. Than ôi, giá như ngày xưa người biết dằn lòng trước “một ham muốn, ham muốn tột bậc” của người thì ngày nay bé đâu cần phải hy sinh “một ham muốn, ham muốn tột bậc” của bé - được ngậm vào bầu sữa mẹ! Vì vậy, thiết nghĩ Đảng cũng nên mau làm lễ truy điệu và truy tặng danh hiệu cho bé rồi gửi xuống cho bé tấm hộ chiếu công vụ đặc biệt để bé lên đường sang Đức và Nga tìm “gặp Bác Hồ” cho thoả niềm “mơ” ước bấy lâu.
Tôi chỉ sợ rằng khi gặp được “Bác” trong bộ dạng khúm núm xun xoe bên cạnh “Cụ Karl Marx, Cụ Lenine” và không còn khoác trên mình bất kỳ một chiếc mặt nạ nào nữa, bé sẽ không khỏi ngỡ ngàng thốt lên: Hoá ra ngươi chính là tên dâm tặc đội lốt “già Thu” ở núi rừng Việt Bắc năm nao, mượn chiêu bài “giải phóng phụ nữ” để mở lời đường mật “câu kéo” cô sơn nữ ngây thơ Nông Thị Trưng hòng thoả mãn “ham muốn tột bậc” của mình rồi bỏ của chạy lấy người sau khi đã kịp để lại cho đời “tác phẩm” Nông Đức Mạnh, thằng con hoang vô đạo đã gây ra cái chết oan uổng cho ta; hoá ra ngươi chính là kẻ đã im lặng để cho đàn em ra tay tàn độc thủ tiêu một cô sơn nữ cũng không kém phần ngây thơ khác là Nông Thị Xuân, người không chỉ từng má ấp môi kề hầu thoả mãn “ham muốn tột bậc” của ngươi suốt bao lâu mà còn sinh con đẻ cái cho ngươi; hoá ra ngươi chính là kẻ đã “rước” thứ tà giáo mang tên Marx-Lenine về giày xéo non sông gấm vóc mà Tổ tiên của ngươi đã đổ bao xương máu gầy dựng, gây nên cuộc chiến nồi da xáo thịt khiến 3-4 triệu người bị thiệt mạng oan uổng, khiến hơn một triệu người buộc phải gạt nước mắt rời bỏ nơi chôn rau cắt rốn trên những con thuyền mong manh giữa đại dương sóng gió trùng trùng để rồi một nửa trong số đó đã phải làm mồi cho cá trước khi đến được bến bờ của TỰ DO; hoá ra ngươi chính là kẻ đã gây ra cuộc tắm máu mang tên Cải cách Ruộng đất năm xưa, khiến hàng trăm ngàn người dân vô tội - mà hầu hết trong số đó đều thuộc về tầng lớp tinh hoa của dân tộc - bị giết hại một cách tàn bạo và đê hèn; hoá ra ngươi chính là kẻ đã đội lốt Trần Dân Tiên, tự viết sách phong cho mình là “Cha già Dân tộc,” tự bốc thơm mình đến tận mây xanh một cách vô liêm sỹ; hoá ra ngươi chính là kẻ có tầm “nhìn xa trông rộng” đến nỗi ngày 14/9/1958 đã chỉ thị cho đàn em ký Công hàm dâng Hoàng Sa - Trường Sa cho quan thầy của ngươi ở Bắc Kinh; hoá ra ngươi chính là kẻ đã “sáng suốt” rước kẻ thù truyền truyền kiếp của dân tộc vào nhà để đánh đuổi những người bạn của Tự do - Dân chủ, và nếu không có sự hiện diện trong khu vực của những kẻ mà năm xưa ngươi đòi “đánh cho cút” đi đó thì đến một chỗ cắm dùi ở Trường Sa cho Việt Nam giờ cũng không còn; hoá ra...; hoá ra... “Lòng nhân ái bao la” của ngươi ở đâu khi tiếng kêu khóc thảm thiết của hàng trăm ngàn nạn nhân vô tội trong vụ Cải cách Ruộng đất “long trời lở đất” không chạm đến trái tim đen tối của ngươi? “Lòng nhân ái bao la” của ngươi ở đâu khi hàng trăm quan chức cao cấp từng sát cánh với ngươi bị bắt giam vô cớ rồi bị tra tấn và chịu tù đày oan uổng ngay trước mắt ngươi trong cái gọi là “Vụ án xét lại chống Đảng”? Cuộc “Cách mạng Tháng Tám” của các ngươi chẳng qua cũng chỉ là một cuộc cách mạng lừa bịp bởi chỉ ít lâu sau khi đã lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân để cướp chính quyền từ tay một chính phủ hợp pháp, ngươi và lũ đàn em của mình đã hiện nguyên hình là những tên độc tài khát máu khoác áo cộng sản, khủng bố các đảng phái đối lập một cách tàn độc và cuối cùng là ngang nhiên cướp đoạt các quyền tự do cơ bản của nhân dân. Đến tận lúc nhắm mắt xuôi tay, ngươi vẫn một lòng một dạ ôm ấp “Cụ Karl Marx, Cụ Lenine” và tiếp tục lừa mị nhân dân. Ta không hiểu tại sao với những lời lẽ “khuôn vàng thước ngọc” kiểu như “Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng” mà lũ đàn em cuồng tín vẫn cứ tung hê Di chúc của ngươi đến độ mà bản Hiến pháp năm 1789 của Mỹ hẳn cũng không khỏi phải chạnh lòng ghen tỵ. Chỉ cần mỗi câu ấy thôi là đủ để lột tả được não trạng của ngươi - não trạng của một tên [tay sai] thực dân đỏ - cũng như cái “hồn” của bản Di chúc, đồng thời vạch trần được bản chất của cái chế độ chính trị bất nhân do ngươi dựng lên. Chẳng có nơi nào trên thế gian này mà ở đó các “ông chủ” không chỉ phải oằn lưng đóng thuế nuôi lũ “đầy tớ” vô đạo mà còn phải “rất trung thành” với chúng nữa (!) Trong lúc con đẻ của ngươi thì lăn lóc hết tay người này qua tay người khác (để cho ngươi tiếp tục loè bịp thiên hạ) thế mà ngươi vẫn cứ trơ trẽn “gửi lời chào thân ái đến… các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế.” Ngươi không sợ “các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế” đó sẽ nhổ vào bộ mặt đạo đức giả, vô liêm sỹ của ngươi hay sao? “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước,” lời người xưa nói có mấy khi sai bao giờ!
[31] Một phản ứng tâm lý đôi khi xẩy ra với con tin bị bắt cóc, trong đó nạn nhân cho thấy dấu hiệu đồng cảm với kẻ bắt cóc mà không tính đến hoàn cảnh nguy hiểm hay rủi ro mà mình đang lâm phải.
[32] Sau này, những ngày đầu mới trở về Việt Nam, vợ tôi vẫn bị hiện tượng giống như dân gian thường gọi là “giật kinh phong,” mỗi ngày ít nhất bị một lần như thế. Những khi lên cơn như vậy, cô ấy phải chạy vào giường rồi trùm chăn, ôm lấy đầu, ứa nước mắt ra vì đau đớn trong khi vẫn nghiến răng chịu đựng, không hề kêu la một tiếng (vì không muốn cho mọi người trong nhà biết). Một thời gian sau hiện tượng này mới dần dần chấm dứt.
[33] Thời gian vợ chồng tôi ở khách sạn Hải Yến (282 Nguyễn Trãi, Hà Nội), ông Dũng có cho vợ tôi biết là trước đấy Trọng từng nói với ông rằng “nếu Phương mà không đi theo tôi thì tôi cũng sẽ làm cho vợ chồng nó không thể sống hạnh phúc với nhau được.”
[34] Về chi tiết này thì mấy sỹ quan Công an trong Ban Chuyên án nói là chẳng qua Trinh sợ quá nên mới bịa ra để đổ tội cho ông Hải và Trọng thôi.
[35] Ngày 1/4/2009, trang mạng của đài Châu Á Tự Do (RFA) đã đưa tin về sự kiện này nhưng sau đó đã cáo lỗi rằng đấy chỉ là trò đùa ngày Cá Tháng Tư thôi (!). Thực ra, với những ai tỉnh táo thì chỉ cần đặt câu hỏi: “Liệu một đài phát thanh quốc tế như RFA lại có thể đùa được như thế hay sao?” là đã có thể tự rút ra câu trả lời cho mình rồi.
[36] Sau khi tôi tung bức thư lên mạng lần thứ hai, ngày 19/3/2009, thông qua Uỷ viên Quốc vụ viện Đới Bỉnh Quốc, ông Hồ Cẩm Đào đã mời ông Nguyễn Minh Triết “sang thăm Trung Quốc vào thời gian thích hợp.” Họ thừa biết ông Mạnh coi như đã rớt đài và quyền lực sẽ rơi vào tay ông Triết. (Trước đấy, ông Phạm Quang Nghị, Bí thư Thành ủy Hà Nội, đã đến thăm và làm việc tại Trung Quốc từ ngày 15 đến 20/3/2009.)
Sau đấy, Ban Tuyên giáo Trung ương mở cuộc thi Tìm hiểu Biển Đảo Việt Nam (bắt đầu từ ngày 1/4). Các tin tức về Hoàng Sa - Trường Sa bổng trở nên sốt dẻo và mạnh mẽ hơn bao giờ hết trên các trang báo Việt Nam. Vụ va chạm giữa tàu Mỹ Impeccable và nhiều tàu Trung Quốc trên Biển Đông hôm 8.3 cũng như việc Trung Quốc điều tàu Ngư Chính tuần tra trên Biển Đông chỉ là những sự kiện trùng hợp ngẫu nhiên mà thôi. (Ngày 10.3.2009, tàu Ngư chính 311 của Trung Quốc rời cầu cảng ở Quảng Châu đi đến Tam Á, tỉnh Hải Nam. Ngày 14.3.2009, tàu này tiếp tục rời cảng Tam Á để đi tới khu vực biển Hoàng Sa và Trường Sa làm nhiệm vụ tuần tiễu.)
Ngày 17/3, cuộc hội thảo đầu tiên về tranh chấp chủ quyền trên biển Đông đã được tổ chức ở Hà Nội.
Trong 2 ngày 20 và 21/3, tại Hải Phòng, Ban Bí thư Trung ương đã tổ chức “Hội nghị toàn quốc Tổng kết công tác tuyên truyền biển - đảo, phân giới - cắm mốc và thông tin đối ngoại năm 2008, triển khai nhiệm vụ năm 2009.”
Tóm lại, tất cả những diễn biến khác thường trên đây đều xuất phát từ thực tế là phe bảo thủ, phản động, thân Tàu do ông Mạnh cầm đầu đã bị giáng một đòn chí mạng. Đấy mới chính là nguyên nhân thực sự khiến trang mạng của đài RFA ngày 2/7/2009 phải đặt câu hỏi “Điều gì đang xẩy ra trong bang giao Việt – Trung?” Nếu ông Mạnh mà còn an vị thì cho dù Trung Quốc có tiếp tục giở thói côn đồ rồi bắn giết hàng loạt ngư dân Việt Nam trên Biển Đông đi chăng nữa, ông ta cũng chỉ biết giở ngón bài “tủ” duy nhất của mình là thành tâm chắp tay niệm câu thần chú gia truyền “dĩ bất biến ứng vạn biến” mà thôi. Không chỉ có vậy, bây giờ thì hầu như ai cũng biết rằng chính ông ta là kẻ đã “rước” ông “bạn tốt” Trung Quốc vào Tây Nguyên, một khu vực có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về an ninh - quốc phòng, không chỉ đối với Việt Nam nói riêng mà còn đối với cả Đông Dương nói chung. Nếu không phải là kẻ rắp tâm bán nước cầu vinh thì điều này chỉ có thể lý giải bằng sự ngu dốt, thiển cận vô tiền khoáng hậu của một vị “lãnh đạo quốc gia” trong thời đại ngày nay. Với một kẻ đã bán linh hồn cho quỷ thì không có gì là không dám làm cả.
[37] Chính các sỹ quan điều tra trong Ban Chuyên án cũng nhận xét là “ông Dũng ngu!” Rõ ràng, nếu càng phạm nhiều tội lỗi mà vẫn dũng cảm thừa nhận thì sự dũng cảm đó lại càng đáng được ghi nhận, thậm chí đối với một chính trị gia lão luyện thì có thể qua đó chuyển bại thành thắng (ông Lê Hồng Anh là một minh chứng cụ thể trong câu chuyện này). Tiếc rằng ông Dũng đã không thể hiện được phẩm chất đó, ông mới chỉ dừng lại ở mức độ tự ăn năn mà thôi. Trong bức thư tố cáo lần 2 (từ đầu cho đến trước Phần Bổ Sung V này) tôi đã hết sức thiện ý khi trao cho ông một cơ hội lớn cuối cùng nhưng ông đã không biết nắm bắt, lúc nào cũng cứ nơm nớp sợ ông Hải như sợ cọp.
[38] Các sỹ quan điều tra trong Ban Chuyên án nhận xét rằng ông Mạnh là một kẻ “rất thâm hiểm và lươn lẹo.”
Lần vợ chồng tôi bỏ nhà ra khách sạn Công đoàn ở ngay giữa buổi trưa oi bức ngày 3/6/2007, bất chấp sức khoẻ của con gái, ông cậu vợ tôi rất tức giận và làm um sùm cả nhà. Tối hôm đó, vợ tôi gọi điện cho ông Mạnh (lúc này đang trong chuyến công du 4 nước thuộc Châu Mỹ Latin) biết chuyện. Ông đã “xúi” vợ chồng tôi đi taxi về nện cho ông cậu một trận. Lúc ấy tôi cứ nghĩ là chắc ông “bức xúc” thay cho chúng tôi thôi. May mà tôi đã không làm chuyện dại dột đó.
Thời gian vợ chồng tôi mới từ nơi ẩn náu tại nhà bà mợ vợ tôi ở thị xã Quảng Trị trở về Đông Hà ngày 29/6/2007, ông Mạnh đã bố trí để tay Việt kiều Trương Đức Hải từ Sài Gòn ra Đông Hà. Ông Mạnh nói là ông hết sạch tiền nên mượn 100 triệu VNĐ của Hải để đưa cho vợ chồng tôi. Tay Việt kiều này ra nghỉ tại khách sạn Đông Trường Sơn và bảo vợ tôi phải đến khách sạn rồi lên phòng anh ta một mình để lấy tiền. Anh ta nói là nếu vợ tôi chịu lên phòng nói chuyện một lúc thì anh ta sẽ đưa cho cô ấy cả một valy tiền. Tôi lúc ấy vẫn vô tư, không hề gợn chút “lăn tăn” nào cả, nhưng vợ tôi lại quyết không thèm đến. Anh ta đợi một hôm không được đành quay trở vào Sài Gòn. Sau này ngẫm lại tôi mới thấy đây quả là “diệu kế” của cặp bài trùng Nông Đức Mạnh – Hoàng Trung Hải. Nếu lần ấy vợ tôi mà hám tiền hoặc chỉ cần dễ dãi một chút thôi là chắc chắn đã rơi vào cái bẫy mà ông Mạnh và tay Hải Việt kiều kia đang giăng ra.
Ông Mạnh đã toan bài lừa dối vợ chồng tôi ngay từ khi chuyện ông Dũng bị ông Hải “trói” lộ ra. Chỉ ít ngày sau khi vợ tôi báo cho ông Mạnh biết việc ông Dũng vào Công ty Công trình Đô thị Quảng Trị của ông Bùi Đại Thắng để thuyết phục vợ tôi “hãy tạm thời đi theo bố một thời gian” (và sau đấy ông Dũng kể cho ông Mạnh biết chuyện ông đã bị ông Hải giăng bẫy như thế nào), ông Mạnh đã bịa ra với vợ tôi chuyện ông Dũng bị ông Hải quay phim ghi lại cảnh ông ta nhận hối lộ từ ông Hải - và nói đấy là bằng chứng phạm tội giúp ông Hải khống chế ông Dũng. (Ông ta dặn vợ tôi: “Con về kể với Hùng để nó biết, kẻo nó lại nghĩ này nghĩ nọ!” Tới thời điểm ấy, vợ tôi vẫn chưa cho tôi biết việc ông Dũng trước đấy từng khóc lóc sám hối với cô ấy chuyện ông ta say rượu và chơi gái trinh cùng với ông Hải để rồi sau đó ông Hải ra tay thủ tiêu cả hai cô gái nhằm bịt đầu mối.) Cho dù là có thể lúc đấy ông Mạnh không muốn tôi biết được sự thật quá kinh khủng kia của ông Dũng và ông Hải nhưng điều này ít nhiều cũng cho thấy ông ta là một kẻ thâm hiểm khó lường. Và khoảng cách từ đó cho đến việc ông ta nhẫn tâm bán đứng vợ chồng tôi sau đấy một thời gian chỉ là một bước chân ngắn nữa mà thôi. Ban đầu tôi cứ nghĩ ông ta thuộc dạng người đứng đắn với vẻ ngoại đạo mạo thế kia nên chắc chắn phải cần tới sự hiệp trợ của “quái kiệt” Hoàng Trung Hải mới đủ sức nặn ra những âm mưu bẩn thỉu hòng lường gạt vợ chồng tôi nhưng càng về sau tôi mới càng nhận ra bản chất quỷ quyệt và hiểm độc của “nhà cải cách ôn hoà” Nông Đức Mạnh – “danh hiệu cao quý” mà các quan thầy phương Bắc đã “phong tặng” cho tên tôi tớ trung thành và tận tuỵ này.
[39] Đúng là “phú quý giật lùi.” Chứng kiến màn trình diễn trước máy quay phim cổ lỗ sỹ giữa núi rừng Việt Bắc năm xưa trong đó ghi lại hình ảnh vị “Cha già Dân tôc” tự phong của chúng ta vận xà lỏn vừa đi tới đi lui vừa hong quần áo cả ở trên đầu lẫn trên tay thì đến vua hài Charlie Chaplin sống lại hẳn cũng phải tôn “diễn viên” ngoại hạng này làm “sư phụ.”
[40] Báo điện tử Vietnamnet đã tỏ ra nhanh nhạy khi chạy tít bài “Tôi mong lãnh đạo quốc gia có tầm nhìn Lý Quang Diệu” trên trang Tuần Việt Nam vào đúng buổi sáng ngày khai mạc Hội nghị Trung ương lần thứ X, 29/6/2009. Nhưng cuối cùng hoá ra báo này cũng bị “việt vị.”
[41] Các sỹ quan điều tra cho hay: Trinh khai rằng ngay sau khi tôi tung THƯ TỐ CÁO lên mạng lần thứ 2 (12/3/2009), ông Hải đã liên lạc với Trinh để mua số chứng cứ mà Trọng giao lại cho anh ta với cái giá 1 tỷ USD. Sau đó Trinh đã mang số chứng cứ này về Việt Nam và bàn giao cho ông Hải. Điều này càng chứng tỏ trong Ban Chuyên án (cũ) đã có kẻ bán linh hồn cho quỷ. Trinh còn khai là trước đấy chính ông Hải đã thuê anh ta giết Thuỷ. Công an đã bố trí cho Trinh đối chất với ông Hải và ông Mạnh.
Theo những gì tôi được biết, ngoài vợ chồng tôi và Trinh, ít nhất còn có một người nữa tố cáo chuyện ông Hải giết người. Nhân vật này tên là Đức, làm việc cho một tổ chức phi chính phủ (NGO) ở Đông Hà, Quảng Trị, trước đây từng nằm trong đường dây ma tuý của ông Hải và cũng đã từng “hợp tác” với vợ tôi một vài vụ (Đức chính là người đã lái xe đưa vợ tôi và ông Nguyễn Khánh Toàn vào Đà Nẵng dự Hội nghị của Vinatex hồi đầu năm 2006). Thời gian ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải mới xây nhà cho vợ chồng tôi ở Hà Nội (đầu năm 2006), Đức đã đứng ra quán xuyến và trông nom công việc xây dựng giúp ông Hải mấy tuần liền, vì anh ta giỏi tiếng Anh, có thể trao đổi với tốp thợ người Mỹ. Sau khi Công an tiến hành điều tra vụ việc, dường như nhận ra được bản chất tàn độc của ông Hải và để tránh kết cục bi thảm của nhiều thuộc hạ “thân tín” dưới tay ông ta, Đức đã hợp tác với Công an và tố cáo ông Hải là trùm ma tuý và giết người.
[42] Theo tôi thì chỉ riêng việc bắt được Trinh ở Trung Quốc đã là một kỳ tích thực sự.
[43] Không phải tôi nhận xét hồ đồ hay theo cảm tính gì đâu mà ngay chính các sỹ quan điều tra trong Ban Chuyên án cũng nhận định như vậy.
[44] Tôi hoàn toàn không phải hồ đồ hay mơ mộng hão huyền gì về chuyện này đâu. Giữa tháng 4/2009, một nhóm sỹ quan Công an gồm 6 người đã từ Hà Nội vào nghỉ tại khách sạn Bảo Minh, nơi vợ tôi làm nhân viên phục vụ, để theo dõi và điều tra về vợ chồng tôi, đặc biệt là vợ tôi. Ngay trước khi ra Hà Nội, tối 21/4/2009, họ đã công khai lộ diện là những sỹ quan trong Ban Chuyên án khi tiếp chuyện với vợ tôi. Họ nói, “Chế độ này coi như đã sụp đổ rồi, tất cả những gì đang diễn ra hiện nay chỉ là một màn kịch để giữ thể diện và an ninh cho đất nước mà thôi.” Họ còn nhận xét tôi là “người dũng cảm, một mình mà lật đổ được cả một chế độ.” (Tôi thì chỉ mong người ta nhớ tới những nỗi đau mà vợ mình đã và đang phải nếm trải suốt bao năm qua thôi.) Chính ông Lê Hồng Anh và một số sỹ quan cao cấp khác trong Ban Chuyên án cũng từng cho vợ tôi biết điều này.
[45] Với một thể chế chính trị mà pháp luật bị lũng đoạn và chỉ dành cho hạng dân đen thấp cổ bé họng như Việt Nam hiện nay, những kẻ có chức có quyền còn lạ gì ruột gan của nhau. Lòng vả cũng như lòng sung thôi.
[46] Đây mới là căn nguyên thực sự đằng sau vụ bắt giữ luật sư Lê Công Định cùng một số đối tượng liên can khác. Vị luật sư trẻ tuổi chí lớn này xem ra chỉ là một con tốt trên bàn cờ chính trị hiện nay mà thôi. Và đây chính là một mũi tên trúng nhiều đích của Bộ Chính trị và của cá nhân ông Triết.
Đầu tiên, qua việc bắt giữ luật sư Lê Công Định, Bộ Chính trị và bản thân ông Triết muốn cho Trung Quốc thấy rằng dù ông Triết hay bất kỳ nhân vật nào lên thay ông Mạnh đi chăng nữa thì cũng không có gì thay đổi ở Việt Nam cả, qua đó để tránh bàn tay can thiệp thâm độc của Trung Quốc - người láng giềng phương Bắc vốn chỉ quen thói chờ chực lúc hàng xóm gặp cảnh tang tóc, hoả hoạn để giở trò ăn cướp. Con đường mà tay “Bợm già Dân tộc” Trần Dân Tiên** của chúng tôi đã chọn, chúng tôi sẽ cứ thế nhắm mắt mà đi như mấy chục năm qua thôi, các đồng chí chớ có lăn tăn gì cả. (**Nghề này thì lấy ông này tiên sư! Xin mạn phép mượn lời của đại thi hào Nguyễn Du ở đây vậy. Thực ra, làm “đĩ” thì cũng không nhất thiết cứ phải tuột quần ra đâu - nghề chơi hiện đại còn lắm điều hay hơn nhiều và cũng đáng ghê tởm hơn nhiều. Đang tâm gây ra cái chết thê thảm cho hàng trăm ngàn người dân vô tội rồi sụt sùi vài giọt nước mắt ra chiều “hối lỗi” và cuối cùng đâu lại vào đó - đấy chỉ có thể là loại “đĩ” mạt hạng đáng phỉ nhổ nhất Đông Tây kim cổ!)
Thứ hai, Bộ Chính trị cũng muốn phòng xa, “tiên hạ thủ vi cường,” sớm ra tay với một [số] đối thủ tiềm tàng ngõ hầu sau khi Hiến pháp mới được thông qua, Đảng Cộng sản Việt Nam, dưới một diện mạo mới và tên gọi mới, sẽ tiếp tục nắm quyền, hạn chế thấp nhất những xáo trộn bất lợi cho họ.
Thứ ba, với động thái này, ông Triết muốn “ghi điểm” trong mắt những thành phần bảo thủ trong Đảng ngay trước thềm Hội nghị BCHTW lần thứ X, kỳ Hội nghị mà ông kỳ vọng là mình sẽ chính thức được nắm giữ vị trí của ông Mạnh để rộng đường thể hiện hoài bão của mình.
Thứ tư, chiến dịch bắt bớ này cũng giúp đánh lạc hướng dư luận khỏi cuộc chiến tranh giành quyền lực đang diễn ra rất gay gắt trong giới lãnh đạo chóp bu.
Dù sao, trong chốn lao tù lạnh lẽo, anh Định cũng chớ vội lấy thế làm buồn. Biết đâu, vai trò tốt thí của anh lại chẳng có lợi cho đất nước hơn là vào một ngày đẹp trời nào đó anh trở thành vị Tổng thống của nền cộng hoà non trẻ ở Việt Nam (tuy vậy, tôi vẫn ưa chế độ dân chủ như của Nhật, Anh hoặc Singapore hơn). Chí ít là thế cũng còn hơn đứt những “Tổng Mười” hay “Tổng Mạnh” v.v., những kẻ mà đến muôn đời sau vẫn còn bị người đời nguyền rủa. Tương lai và vinh dự thuộc về những người dũng cảm và ưu thời mẫn thế như anh chứ hoàn toàn không dành cho khối kẻ có chữ nghĩa vẫn cam tâm bẻ cong ngòi bút, khom lưng quỳ gối bợ đỡ cho bè đảng vô liêm sỹ đang ngày đêm kìm kẹp và gieo rắc tội ác cho nhân dân, những người đã có công sinh thành và nuôi dưỡng họ.
[47] Trước đó, ông Mạnh không chỉ là người đứng đầu mà còn chiếm vị trí thượng phong trong Bộ Chính trị, vì ngoài liên minh mật thiết với ông Nguyễn Tấn Dũng, ai cũng có thể dễ dàng nhận thấy là tay chân của ông ta trong Bộ Chính trị và BCHTW là rất đông. Bởi thế, ông Trương Tấn Sang - người chắc chắn còn có tham vọng cao hơn tại kỳ Đại hội Đảng lần thứ XI - không dại gì “giỡn mặt” ông Mạnh. Quyền uy tối thượng và sự ngang ngược của ông Mạnh thời gian sau Đại hội X còn thể hiện ở chỗ ông ta dám bất chấp đạo lý, bất chấp dư luận, bất chấp hình ảnh quốc gia bị hoen ố khi khi chỉ đạo tay chân “tha bổng” cho ông Nguyễn Việt Tiến - một tay trùm tham nhũng ở Bộ GTVT - đồng thời đưa thiếu tướng Phạm Xuân Quắc, thượng tá Đinh Văn Huynh cùng nhà báo Nguyễn Việt Chiến (báo Thanh Niên) và nhà báo Nguyễn Văn Hải (báo Tuổi Trẻ) - những người hùng trong cuộc chiến chống tham nhũng - ra trước vành móng ngựa, chỉ để thanh toán mối thù hằn cá nhân. (Mặc dù lãnh đạo Bộ Công an đã đề nghị “tha” cho tướng Quắc nhưng ông ta vẫn không đồng ý.)
[48] Sau này, một vị Phó Giám đốc Công an Quảng Trị (tôi không tiện nêu tên) khi nhắc đến chuyện Công an Quảng Trị mời tôi đến để “trao đổi” vào ngày 5/8/2008, đã nhận xét với vợ tôi là: “Nó đến gặp Công an mà mặt cứ tỉnh bơ như không; mẹ nó bảo nó bị tâm thần mà tâm thần đâu chả biết.”
[49] Không phải ngẫu nhiên mà sau đấy vợ tôi từng có một số lần gọi điện cho ông Triết - chính ông Mạnh đã bảo vợ tôi làm chuyện đó. Dường như ông ta muốn lôi kéo ông Triết vào vòng ảnh hưởng của mình, hoặc ít ra cũng tạo lập được một mối quan hệ hữu hảo. Song, không như những người khác, ông Triết không tỏ vẻ mặn mà khi nói chuyện với vợ tôi, thậm chí có lần ông còn bảo lần sau đừng gọi nữa.
[50] Để tự cứu mình, Việt Nam không còn con đường nào khác là phải sớm liên minh với Mỹ nhằm tạo thế cân bằng chiến lược với Trung Quốc. Nếu không thì cái “lưỡi bò” của gã láng giềng phương Bắc này không chỉ liếm sạch Hoàng Sa và Trường Sa thôi đâu mà còn có cơ vươn dài hơn thế, vấn đề chỉ là thời gian mà thôi. Tất nhiên, chúng ta cũng không quên bắt tay với những nước có cùng lợi ích chiến lược như Nhật Bản, Ấn Độ, Australia... đồng thời tham gia sâu hơn vào các cơ cấu đa quốc gia khác, đặc biệt là ASEAN. Song quan trọng hơn cả là phải dựa vào thực lực của chính mình. Muốn vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam phải giải phóng hoàn toàn sức sản xuất cho xã hội, thực hiện cải cách thể chế triệt để, đoạn tuyệt với chính thể độc tài hiện nay và dân chủ hoá đất nước. Tuy nhiên, nếu ông Mạnh cùng phe phái bảo thủ, phản động, thân Tàu của ông ta vẫn chiếm ưu thế trong Bộ Chính trị và BCH TW Đảng thì quý vị đừng bao giờ ngây thơ kỳ vọng là họ sẽ từ bỏ thứ bảo bối “4 tốt và 16 chữ vàng” kia. Quyền lực chưa bao giờ làm cho kẻ nắm giữ nó tốt lên mà chỉ có xu hướng tha hoá họ thôi. Nếu không có những cơ chế kiểm soát và cân bằng quyền lực hữu hiệu, quyền lực sẽ là mầm mống dẫn đến tai hoạ khôn lường.
[51] Quý vị hãy cứ hình dung thế này: Tôi chỉ là một cá nhân đơn độc, không một tấc sắt trong tay, dám chống lại những nhân vật quyền uy nhất của một chính thể độc tài. Thử hỏi, nếu không nắm trong tay thứ vũ khí duy nhất của mình là SỰ THẬT, cộng với lòng dũng cảm và ngòi bút sắc bén, làm sao tôi có thể đương đầu nổi với họ - chẳng khác nào “châu chấu đá xe” cả. Tôi mà chỉ cần “sáng tác” ra một tình tiết nào đấy thôi là đã không xong với họ rồi, đồng thời lại tạo cớ giúp họ thuyết phục người khác rằng toàn bộ những tình tiết khác cũng đều là bịa đặt. Hơn nữa, tôi không cần gì phải hạ mình để làm cái việc của hạng tiểu nhân đó. Chính tôi cũng đã gửi nội dung THƯ TỐ CÁO cho họ (qua địa chỉ email của Diệp, thư ký của con gái ông Dũng) để họ được tận mắt “thẩm duyệt” vào các ngày 4 và 5/4/2008 trước khi tung lên mạng lần thứ nhất (ngày 21/4/2008). Rỗi hơi dựng chuyện bôi nhọ lãnh đạo Nhà nước, phỉ báng chế độ, họ chỉ cần họ phẩy tay một cái là đủ để tôi phải ngồi tù mục xương rồi. Bao nhiêu người vì quá phẫn uất, không kìm nổi lòng mình, đã dũng cảm lên tiếng phản đối để rồi phải nếm đủ những ngón đòn hiểm độc của lũ quỷ đỏ ngang ngược này đấy thôi. Họ chẳng phải là những tấm gương nhãn tiền cho tôi và quý vị hay sao?
Mọi diễn biến trong câu chuyện này đều liên quan đến người thật việc thật hết sức cụ thể. Chuyện vợ tôi làm việc ở Công ty May Việt Tiến và Tập đoàn Dệt May có các nhân chứng là ông Nguyễn Đình Trường, ông Lê Quốc Ân, ông Mai Hoàng Ân (nguyên Tổng Giám đốc Vinatex), bà Mai (nguyên Kế toán trưởng Vinatex)...; chuyện vợ tôi là con nuôi của ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải có các nhân chứng là ông Nguyễn Đình Trường, ông Lê Quốc Ân (hai người này cũng đã từng nhận vợ tôi làm con nuôi, thậm chí vợ tôi đã làm lễ ra mắt gia đình ông Lê Quốc Ân), ông Nguyễn Minh Triết, ông Nguyễn Khánh Toàn, ông Bùi Đại Thắng, ông Đào Duy Thanh, một số vị lãnh đạo tỉnh Quảng Trị...; tội trạng của ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải có các nhân chứng là ông Bùi Đại Thắng, ông Nguyễn Khánh Toàn, ngoài ra còn một viên thư ký của ông Dũng từng đi cùng ông Bùi Đại Thắng vào Quy Nhơn thu thập tài liệu tại nhà của tay trợ lý bị giết hại của ông Hải; chuyện tôi phải lang thang hết nơi này nơi nọ (do bị ba ông kia lừa phỉnh và thậm chí phải chạy trốn khỏi sự truy lùng của họ) đều có địa điểm, thời gian cụ thể... Vì một lý do nào đó nên những nhân chứng trên có thể lúc này lúc khác chưa lên tiếng, nhưng nếu có chuyện gì xẩy ra với vợ chồng tôi, chắc chắn cuối cùng lương tâm cũng buộc họ phải lên tiếng. (Sau này ông Bùi Đại Thắng đã khai nhận hết với Công an; Trinh [bạn Trọng] đã bị Công an bắt và khai hết với Công an; Đức [đệ tử của ông Hải, từng làm việc cho một tổ chức phi chính phủ ở Quảng Trị] đã hợp tác với Công an và khai ra tội trạng của ông Hải, kể cả chuyện ông Hải giết người.) Chính vì thế mà khi biết tôi đã viết thành một câu chuyện và sẵn sàng tung lên mạng bất cứ lúc nào (cũng như sau khi tôi đã tung lên mạng lần đầu), ông Mạnh và ông Hải mới không dám ra tay với tôi. Tôi viện dẫn nhiều sự kiện bên ngoài chẳng qua là vì muốn chỉ ra bản chất của sự việc đằng sau hiện tượng cho quý vị thấy, nêu rõ mối liên hệ nhân - quả giữa chúng với câu chuyện này, điều mà chỉ những người trong cuộc như tôi mới hiểu được.
Câu chuyện này ban đầu rất ít người tin vì nó kinh khủng quá, li kỳ quá, chưa kể những con số lên đến hàng tỷ USD khiến nhiều người mới nhìn qua đã cảm thấy “chóng mặt.” Thực ra, ban đầu thì tôi cũng ngây thơ như phần lớn quý vị thôi. Tôi còn thật thà đến nỗi vợ làm con nuôi của ba ông kia trong khi phải chạy vạy từng đồng một (vì bị ông Hải lừa) mà tôi vẫn không mảy may nghi ngờ gì. Một phần là do tin tưởng vợ, một phần là cũng không nghĩ họ lại có thể tham nhũng và giàu có đến thế. Tôi còn ngây thơ đến mức khi ông Mạnh đồng ý trả lại số tiền hối lộ cho bố mẹ Lê Văn Toại (mấy chục tỷ VNĐ), tôi đã tự nhủ rằng “ông này chắc phải thương vợ mình lắm nên mới ‘kiếm’ được một ít tiền dưỡng già mà cũng quyết trả lại để giúp mình.” (Trước khi lên làm Tổng Bí thư, chẳng phải ông Mạnh cũng đã được tiếng là người có đức và thanh liêm là gì.) Số tài sản 3 tỷ USD mà ông Mạnh hé lộ cho vợ tôi biết chính là vì về sau ông ta muốn giành tình cảm của vợ tôi trong cuộc ganh đua với ông Dũng và ông Hải (bản thân ông Mạnh cũng là một kẻ rất háo thắng). Không dừng lại ở đó, ông ta còn “khoe” luôn cả kho của cải bí mật nằm ở phía sau bàn làm việc của mình tại trụ sở BCHTW Đảng. (Ngay chuyện ông ta được vợ tôi đặt biệt danh là “ông ngoại,” còn ông Dũng là “ông nội,” [thời gian ông Nguyễn Khánh Toàn theo dõi vợ chồng tôi vào cuối tháng 4/2007] cũng đã khiến ông ta tỏ ra hả hê với ông Dũng lắm rồi.) Không hiểu có phải thấy tôi thật thà một cách tội nghiệp quá hay không mà thời gian tôi lang thang Đà Lạt, Trọng từng nhắn tin cho tôi là “Tôi thương anh lắm!...” Chính ba ông kia sau này cũng đã phải lắc đầu thốt lên với ông Bùi Đại Thắng là “chưa từng thấy ai thật thà và tin tưởng vợ” như tôi cả!
Sau khi tung thư tố cáo lên lần đầu tiên vào ngày 21/4/2008 và không nhận thấy bất kỳ động thái nào từ phía nhà chức trách, tôi cứ tưởng mọi chuyện rồi sẽ trôi vào sự im lặng đáng sợ. Tôi nghĩ, cùng lắm họ cũng chỉ “đóng cửa bảo nhau” rồi xử lý nội bộ thôi. Về lại Hà Nội, tôi gần như kiệt sức, chẳng còn tâm trí đâu mà nghĩ tới những mơ ước lớn lao nữa. (Tất nhiên, không phải mọi hy vọng của tôi đều tắt ngúm, bởi tôi vẫn rất tin vào câu chuyện, rất tin tưởng vợ mình.) Tôi mất hết niềm tin vào cuộc sống trong khi người thân, bạn bè của tôi lại mất hết niềm tin vào tôi, nghĩ rằng tôi đã vì vợ mà đánh mất tất cả. Thậm chí, những người trong gia đình tôi còn coi tôi như một đứa con bất hiếu, bị tâm thần hoang tưởng, nghe theo lời vợ rồi vu cho mẹ những tội tày đình. Tôi đã bán nhà, rũ bỏ hết mọi ước vọng cao xa ở Hà Nội để vào Quảng Trị làm lại cuộc đời, mang theo trong lòng nỗi đau không thể thổ lộ cùng ai. Lúc ấy, không chỉ vợ tôi rất cần có tôi mà chính bản thân tôi cũng rất cần có cô ấy. Khi mới vào Đông Hà mua nhà và bắt tay vào công việc dịch thuật, ổn định cuộc sống, tôi từng bảo vợ nói với ông Mạnh rằng nếu họ chuyển đủ số tiền mà họ đã hứa cho vợ chồng tôi lần cuối cùng (300 triệu Euro), tôi sẽ sẵn sàng viết thư phủ nhận lại những gì mà tôi đã trình bày trong THƯ TỐ CÁO. Chính ông Mạnh lúc bấy giờ cũng đã nói với vợ tôi rằng “ai thì bố không dám tin nhưng riêng Hùng nói thế thì bố tin.” Song không ngờ sau đấy họ lại tiếp tục bài lừa dối chúng tôi (“Bố bây giờ không đào đâu ra tiền... Mỗi tháng bố sẽ lấy tiền lương gửi cho các con 20 triệu rồi sau này....” “Tháng nào bố không có đủ 20 triệu, chỉ được 10 triệu thì con với Hùng cũng nhận cho bố nhé (!?)”). Và khi tôi thấy Công an bắt đầu có những động thái rục rịch điều tra, đồng thời đã nhận ra được bản chất bịp bợm không thay đổi của họ, giấc mơ tưởng đã chết trong tôi bỗng được đánh thức. Bên cạnh đó, hình ảnh hoen ố của vợ chồng tôi trong mắt người thân và bạn bè cũng là một động lực quan trọng khiến tôi quyết tâm đi đến tận cùng của SỰ THẬT. Chính vì thế, THƯ TỐ CÁO lần thứ 2, lần thứ 3... mới có dịp đến được tay quý vị.
[52] Việc ông Triết cực chẳng đã phải vào Đông Hà rồi đường đột chạm trán vợ tôi vào ngày 2/8/2009 là nhằm cho những kẻ vẫn có ý nghi ngờ tự tìm cho mình câu trả lời.
[53] Thực ra, ông Triết cũng rơi vào tình thế tế nhị; tham gia “làm ăn” với ông Mạnh và ông Hải chẳng hay ho gì đã đành mà từ chối thì cũng không hẳn là thượng sách, còn nhiều thứ dích dắc kéo theo đó.
[54] Như trường hợp ông Lê Hồng Anh đã dũng cảm thừa nhận sai phạm của mình và được Bộ Chính trị giao trọng trách điều tra vụ việc.
[55] Dịp ấy, ông Mạnh vào thăm và làm việc ở Bà Rịa - Vũng Tàu rồi Bình Dương. Tại lễ kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Công Đoàn Việt Nam (28/8/1929 - 28/8/2009), tổ chức đại diện quyền lợi cho “giai cấp công nhân,” ông Mạnh - người lãnh đạo “đội tiền phong của giai cấp công nhân” - cũng không có mặt. Ông ta giờ đi đến đâu chỉ đem sự ô uế đến đó, người ta không thể chỉ vì mục đích “đóng kịch” mà chấp nhận sự có mặt của ông ta rồi khiến cho ý nghĩa sự kiện bị hoen ố. Dĩ nhiên, những dịp như thế Bộ Chính trị lại buộc phải kiếm cớ “đẩy” ông ta đi đâu đó. Chẳng hạn như kỳ Hội nghị Quân chính Toàn quân diễn ra ngày 24/6 vừa rồi, ông Mạnh buộc phải đi “tiếp xúc cử tri” ở Thái Nguyên. (Chẳng nhẽ ông ta sẽ đến “chỉ đạo” các vị tướng lĩnh như thế này hay sao: Khi nào giặc đến mà bí quá thì các chú cứ chạy tới nhà anh. Anh sẽ phát cho mỗi chú một khẩu súng nạm ngọc hoặc kim cương, rồi ra rình lúc chúng lơ là, cứ nhè vào đầu thằng địch nào bụng to trán hói mà bóp cò là chắc thắng. Bọn Tàu ngu lắm, hễ mất tướng là như rắn mất đầu thôi. Anh tính hết cả rồi, vũ khí mua về hết nắng lại mưa thì rồi cũng sớm bán sắt vụn, chia nhau chẳng được bao nhiêu, chi bằng quy ra các bộ sưu tập súng nạm ngọc, nạm kim cương kia vừa gọn, vừa đẹp lại vừa để được lâu nữa chứ!
Dĩ nhiên, khi không còn cách nào khác thì họ vẫn phải tiếp tục màn kịch này thôi. Những lúc như thế thì các vị Uỷ viên Bộ Chính trị cứ phải cố nín thở mà xếp hàng sau lưng ông Mạnh, thậm chí đôi khi còn phải mỉm cười làm duyên nữa ấy chứ (!).
[56] Các vị lãnh đạo tỉnh Quảng Trị đều biết vợ tôi, do trước đây cô ấy từng là một nhân viên nhà hàng đầy “cá tính” - vợ tôi từng đâm thủng lốp xe ô tô của ông Lê Hữu Phúc (lúc bấy giờ là Chủ tịch tỉnh, nay là Bí thư Tỉnh uỷ) chỉ vì ông này lỡ có hành vi thiếu đứng đắn . Ngoài ra nhiều vị cũng biết mối quan hệ của ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải với vợ tôi.
[57] Ngoài chuyện vợ chồng tôi đã giúp tránh cho đất nước một thảm hoạ khi ngăn chặn được việc quyền lực rơi vào tay liên minh ma quỷ Nông Đức Mạnh - Nguyễn Tấn Dũng - Hoàng Trung Hải (đặc biệt là tên trùm mafia kiêm sát thủ máu lạnh Hoàng Trung Hải), trong Bộ Chính trị hầu như ai cũng thu được lợi ích cá nhân cả (tất nhiên là trừ những người có dính líu sai phạm với ba ông kia). Vậy mà họ lại nỡ đối xử với vợ chồng tôi như là “con tin” trong cuộc chiến tranh giành quyền lực của họ - ngay cả khi vợ tôi đã suýt mấy lần ngất xỉu tại nơi làm việc mà họ vẫn cứ dửng dưng như không (mọi động tĩnh của vợ chồng tôi, đặc biệt là vợ tôi, họ đều giám sát kỹ). Họ muốn xem vợ chồng tôi chịu đựng được đến đâu. Thật chẳng khác nào “làm tiền trên nỗi đau của người khác” cả. Tôi nghĩ, họ còn chưa có được cái tâm của một người bình thường chứ đừng nói đến chuyện ngồi đấy mà nhăm nhe leo lên “lãnh đạo” quốc gia. Xem ra, chất “cộng sản” một khi đã ngấm vào máu rồi thì thật không dễ gì để có thể thay đổi trong một sớm một chiều.
[58] Vợ tôi làm nhân viên tại khách sạn Bảo Minh trên đường Hoàng Diệu (Đông Hà, Quảng Trị) một thời gian từ ngày 27/3 đến ngày 13/6/2009.
[59] Tôi nghĩ rằng ba ông kia không phải là không lừa được tôi mà chính là họ không lừa dối được ông Trời, không cưỡng lại được mệnh Trời. Xin quý vị chớ vội cười, nếu không có niềm tin sâu sắc vào những giá trị tâm linh như thế thì mọi xã hội đều trở nên hỗn loạn.
[60] Thực ra họ vẫn còn ngoan cố, chưa chịu thú nhận hết tội lỗi của mình. Ông Dũng đã thú nhận phần nào tội lỗi của mình còn hai ông kia vẫn tuyệt nhiên không hé răng hay thậm chí là tỏ chút thái độ ăn năn, hối lỗi.
Dù vậy, nhân đây tôi cũng muốn gửi lời xin lỗi từ đáy lòng mình tới ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải. Để mọi người tin vào câu chuyện này, tôi không còn cách nào khác là phải dùng những lời lẽ nặng nề nhất nhằm vào các ông. Cho dù các ông đã gây ra bao nhiêu đau đớn cho vợ chồng tôi, cho dù các ông đã từng tìm đủ mọi cách hòng bịt miệng tôi, cho dù chính bản thân các ông cũng hiểu rằng mình hoàn toàn “xứng đáng” với sự lăng mạ ấy, song với tư cách là đứa “con rể hụt” một thời của các ông, điều đó cũng không ít lần khiến tôi phải nhói lòng. Cuộc đời này chỉ lưu giữ lại những gì tốt đẹp nhất giữa con người với con người thôi, ở đó không có chỗ cho hận thù. Nói ra những lời này ở đây coi như tôi cũng đã tha thứ cho các ông rồi. Riêng với vợ tôi thì khỏi cần, cô ấy không bao giờ chứa chấp thù hận trong lòng cả. Dù sao, để gột rửa được lòng mình, ít nhất các ông cũng phải một lần dũng cảm đối diện với SỰ THẬT. Và nếu điều đó lại vì đại cuộc nữa thì còn tốt biết bao.
[61] Tất nhiên, không ai được phép đánh giá thấp những đóng góp hết sức quan trọng của các sỹ quan điều tra trong Ban Chuyên án. Họ đã làm việc quên ăn quên ngủ, vượt qua mọi cám dỗ với quyết tâm đưa tội ác ra trước ánh sáng. Tôi nghĩ, họ rất xứng đáng được lịch sử tôn vinh.
[62] Có nhất thiết là cứ phải làm ông nọ bà kia thì mới được lưu danh sử sách đâu. Lên cao dễ chóng mặt lắm, không cẩn thận “um” ra một cái thì tiếng thối còn để đến muôn đời, lại còn làm hỏng hết cơm cháo của kẻ khác. Bao nhiêu tấm gương tày liếp còn sờ sờ ra trước mắt mọi người đấy thôi.
[63] Sáng hôm đó, tôi bỏ ra khách sạn Bưu Điện (291 Lê Duẩn, Đông Hà) để ở vì không còn chịu nổi không khí bức bối trong nhà cùng thái độ thiếu tôn trọng của gia đình vợ.
[64] Đây là một câu chuyện rất phức tạp, rối rắm nên quý vị cần phải đọc thật kỹ để thấy được logic của nó trước khi đưa ra bất kỳ nhận định hay phán xét gì.
[65] Quý vị chớ có ngạc nhiên là tại sao người ta chỉ gặp vợ tôi. Thực ra, cô ấy mới là nhân vật chính của câu chuyện chứ không phải tôi. Tôi đơn giản chỉ là người ghi lại những gì mà vợ đã kể cho mình, cũng như thuật lại những diễn biến liên quan khác mà thôi. Chính vì thế mà trong suốt quá trình điều tra, Công an chỉ làm việc với vợ tôi chứ không hề làm việc với tôi (ngoại trừ lần tôi được Công an tỉnh Quảng Trị mời lên để “trao đổi” vào ngày 5/8/2008). Ngoài ra, theo tôi nghĩ, các nhà chức trách Việt Nam không muốn tiếp xúc trực tiếp với tôi còn vì một lý do nữa là họ thừa biết “tư thế” của họ cũng chẳng lấy gì làm “vẻ vang” cho lắm, họ sợ phải đối diện với một người như tôi. Dù sao, điều đó ít nhiều cũng cho thấy “tấm lòng” của họ đối với đất nước. (Tất nhiên, việc họ không muốn tôi tiếp xúc với các đoàn ngoại giao nước ngoài chắc chắn là còn có những lý do khác nữa.)
[66] Mấy hôm đó ngoài việc phái tiếp đón các đoàn nước ngoài, vợ tôi còn phải tiếp chuyện với mấy đoàn sỹ quan cao cấp của Bộ Công an nữa. (Trong Bộ Công an cũng có nhiều phe phái khác nhau; và không phải phe nhóm nào cũng tường tận vụ việc.) Có đoàn vào để động viên vợ chồng tôi nhưng cũng có đoàn muốn tìm hiểu thêm tình hình.
Ngày 12/9/2009, tôi gọi điện cho ba tôi (ở Hà Tĩnh) thì được biết là vào cuối tháng 8/2009 có một viên sỹ quan Công an thuộc Cục An ninh Văn hoá - Tư tưởng (A25) tới nhà ông để điều tra. Họ còn mò đến tận nhà một ông anh họ của tôi, người mà trước đây tôi từng nhập hộ khẩu vào khi mới chuyển hộ khẩu về Hà Nội năm 1999. Thực sự tôi cũng thấy tội nghiệp cho các chiến sỹ an ninh mẫn cán trên mặt trận văn hoá - tư tưởng này. Lẽ ra người ta nên thông báo tình hình cho họ biết để họ khỏi phải vất vả như thế. Tôi nghĩ, những gì mà họ đúc rút ra từ câu chuyện này chẳng khác nào chén thuốc đắng mà chắc phải còn rất lâu nữa họ mới có thể nuốt trôi. Dĩ nhiên, không riêng gì họ mà cả dân tộc này đã bị loè bịp suốt hơn nửa thế kỷ qua, hàng triệu con người đã đổ biết bao xương máu chỉ để tô thắm cho những tấm huân chương trên ngực của những tên độc tài cộng sản vô đạo và để “góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” (!!!) Điều mỉa mai và đau đớn hơn nữa là đâu đâu trên mảnh đất đau thương này người ta cũng thấy hình ảnh được tôn thờ của kẻ bịp bợm đáng ghê tởm nhất. Và “bợm” thì cũng khó mà đẻ ra người được.
[67] Trưa 11/9, đoàn Trung Quốc từ Huế ra nhưng người ta không liên lạc được với vợ tôi (vì cô ấy tắt máy) nên lại quay vào Huế. Sau đó, đoàn này lại trở ra Hà Nội và làm việc với các quan chức Việt Nam và tự điều tra qua một số nhân vật liên quan mà tôi đã trình bày trong câu chuyện. Dự kiến họ sẽ còn gặp vợ tôi ít nhất một lần nữa. Dĩ nhiên là Trung Quốc hết sức quan tâm đến câu chuyện này cùng những hệ luỵ của nó.
Chiều tối ngày 15/9, vợ tôi lại tiếp đoàn ngoại giao người Mỹ ở Cam Lộ. Đoàn gồm 7 người Mỹ, 1 phiên dịch, không có người nào của phía VN tham dự. Sự quan tâm của người Mỹ tất nhiên cũng không kém phía Trung Quốc.
[68] Tôi cũng đã thể hiện rõ quan điểm của mình trong bức thư gửi cho Bộ Chính trị (qua hai địa chỉ email gopycanhsat@canhsat.vn và togiactoipham@canhsat.vn) ngày 27/7/2009: “…Rất mong quý vị tim ra giải pháp tối ưu cho đất nước trong bối cảnh hiện nay. Tôi chỉ mong điều tốt đẹp nhất sẽ đến với đất nước, bi kịch hơn nửa thế kỷ qua sẽ chấm dứt với dân tộc. Còn nếu may mắn có tiền tôi sẽ dành phần lớn số tiền đó để làm từ thiện, chủ yếu là trong các lĩnh vực giáo dục và môi trường…”
[69] Dù thực sự là tôi rất muốn vậy.
[70] Tôi được biết là trong một lần làm việc với Ban Chuyên án (từ hồi tháng 6/2009), ông Dũng đã khóc và bày tỏ sự hối hận vì đã làm cho vợ chồng tôi điêu đứng một thời gian dài. Ông đề nghị với họ là sau này sẽ đem vợ tôi ra nước ngoài khám. Ngoài ra, mới đây ông còn tố giác thêm một sự thật nữa là cái chết của Trọng hoàn toàn không phải diễn ra một cách tự nhiên mà là do ông Hải thuê bác sỹ tiêm thuốc cho anh ta chết. “Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình.” Quả vậy, không phải lúc nào người ta cũng có thể dễ dàng chiến thắng được bản thân, thậm chí dù chỉ là chiến thắng một phần thôi.
[71] Lúc đó, chúng ta sẽ phải chấp nhận một thực tế là Trung Quốc có khả năng tấn công Trường Sa, điều mà không ai trong chúng ta mong muốn. Nhưng chúng ta cũng cần hiểu rằng ngay cả khi quá trình chuyển tiếp sang nền dân chủ diễn ra một cách êm thấm thì khả năng ấy vẫn không thể bị loại trừ và Việt Nam cần phải chuẩn bị cho khả năng xấu nhất đó. Trung Quốc thừa hiểu họ được gì và mất gì nếu vẫn bất chấp đạo lý, bất chấp luật pháp và công luận quốc tế để tấn công Trường Sa, sau khi họ đã “nuốt” gọn Hoàng Sa và một phần Trường Sa của Việt Nam. Người Việt Nam luôn ưa chuộng hoà bình và chủ trương một mối quan hệ hữu hảo, đôi bên cùng có lợi với người láng giềng Trung Quốc (thậm chí đôi khi còn sẵn sàng nhún mình trước anh hàng xóm to con này), nhưng nếu buộc phải ra tay tự vệ thì mỗi người dân Việt Nam sẽ luôn chiến đấu với 200% sức vóc của mình trước những kẻ xâm lược đến từ phương Bắc.
Dường như các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng đã thể hiện thái độ của mình qua chương trình thời sự tối 14/9 vừa rồi. Ngày hôm đó, ông Nguyễn Minh Triết đến thăm Binh chủng Pháo binh trong khi ông Nguyễn Phú Trọng đến dự lễ khai giảng tại Học viện Quốc phòng. Cả hai có vẻ như muốn cho thấy thái độ của Việt Nam trước sự “doạ nạt” của Trung Quốc. Trước đây, Việt Nam “sợ” Trung Quốc đánh Trường Sa vì điều đó có thể khiến người dân bất bình trước thái độ ươn hèn, bạc nhược của Nhà nước rồi nổi lên lật đổ luôn cả chế độ, chứ bây giờ đằng nào thì chế độ này cũng sụp đổ rồi, hà cớ gì cứ phải sợ sệt mãi để cho người ta được thể mà tiếp tục hăm doạ. Hơn nữa, đâu phải Trung Quốc muốn làm gì thì làm, còn cả thế giới nhìn vào nữa chứ. Hình ảnh “trỗi dậy hoà bình” của nước này rồi sẽ ra sao? Quan trọng hơn, làm thế thì chẳng khác nào Trung Quốc đẩy Việt Nam vào tay đối thủ của mình, trong khi ít ra họ cũng muốn Việt Nam giữ lập trường trung lập trong ván bài chiến lược giữa các siêu cường.
[72] Với việc tung THƯ TỐ CÁO lên mạng lần thứ 6 này, câu chuyện chắc chắn không còn có thể che giấu được nữa và tôi cũng không cần phải tiếp tục e dè làm gì. Nếu có gì muốn trao đổi thêm với tôi, xin quý vị hãy cứ mạnh dạn liên hệ qua địa chỉ email của tôi và trong trường hợp cần thiết tôi sẽ cung cấp số điện thoại để quý vị liên lạc.
[73] Tôi ủng hộ một chính thể mà ở đó Thủ tướng đứng đầu nhánh hành pháp; Chủ tịch nước (Tổng thống) chỉ đóng vai trò nghi lễ, tượng trưng; cơ quan lập pháp gồm hai viện, Thượng viện và Hạ viện; Thượng viện bao gồm những thành viên được bầu cử với nhiệm kỳ 6 năm, cứ 3 năm bầu một nửa số thành viên; Hạ viện được bầu với nhiệm kỳ 4 năm; cơ chế bầu cử theo hình thức đầu phiếu đa số tương đối hay đầu phiếu đa số đơn (nhằm hình thành nên hệ thống lưỡng đảng). Dù sao, đây cũng chỉ là đề xuất của một kẻ “ngoại đạo” thôi.
tiếp theo