mercredi 11 mai 2011

P04 - Heinz Schütte Nhân Văn-Giai Phẩm - Năm mươi năm sau

9. Xét lại, Trốt-kít, gián điệp
Mặc dù đã ban lệnh cấm Nhân văn, các tổ chức chính quyền vẫn tỏ ra khá dè dặt – những “sự kiện ở Hungary” đã gây ra bầu không khí hoang mang trong khối các nước xã hội chủ nghĩa khiến người ta phải đặc biệt cảnh giác. Báo Nhân văn bị cho là đã:
từ đối lập văn nghệ càng lúc càng (lấn sang)… chính trị, có tính phá hoại và gây chia rẽ, (vì vậy) các tổ chức Đảng và các cơ quan báo chí vẫn phải tiếp tục (bàn về) vấn đề trí thức. Chủ trương chung của các bài viết này là trí thức, nhất là những người đã tham gia kháng chiến, phải tin tưởng hơn vào Đảng. Trong một bài phát biểu không công bố của Trường Chinh, Đảng đã đề cập tới vấn đề trí thức, trong đó nhấn mạnh Đảng phải có thái độ thẳng thắn và rõ ràng với trí thức. Đây là nền chuyên chính của toàn thể giai cấp công nhân chứ không phải của một vài cá nhân. Nếu quả thực có hiện tượng đó thì đấy là sai lầm và cần phải sửa.[191]
Nhà thơ Hoàng Cầm kể rằng, không lâu sau khi Nhân văn bị cấm, Tố Hữu đã thúc ông viết một bài tự phê bình ngắn để đăng trên báo Nhân dân, theo đó Hoàng Cầm nên thú nhận ông đã mắc sai lầm với Đảng. Bởi vì, theo Tố Hữu, Nguyễn Hữu Đang đã là kẻ phá sản hoàn toàn về chính trị và không ai còn tin ông ta nữa, nhưng các nhà thơ thì khác. Thơ ca là vũ khí đích thực; mỗi nhà thơ là một đội quân, và điều này đã được chứng minh trong kháng chiến: “Khi chúng ta hết đạn, những bài thơ của cậu (Hoàng Cầm) đã động viên cả ngàn quân tuốt lưỡi lê xông lên, đánh giáp lá cà với quân Pháp…”, Tố Hữu nói.[192]
Tuy nhiên lệnh cấm Nhân văn ở Hà Nội cũng như việc quân đội đàn áp ở Đông Âu vẫn chưa buộc được các nhà đối kháng im lặng. Điều này được thể hiện trong thời gian diễn ra Đại hội Văn nghệ Toàn quốc lần thứ hai ở Hà Nội từ 20 đến 28 tháng 2 năm 1957 với sự tham dự của trên 500 đại biểu. Bộ Chính trị Đảng Lao động đã gửi thông điệp sau tới “các chiến sĩ trên mặt trận văn hóa”: “Cách mạng tháng Tám đã chặt đứt xiềng xích cho dân tộc… đồng thời giải phóng cho văn nghệ sĩ…”. Tuy nhiên, “vẫn còn thiếu những tác phẩm thực sự xứng tầm với thực tế cách mạng của nhân dân ta”. Đảng thừa nhận đã mắc phải những sai lầm trong chính sách văn nghệ. Tuy nhiên về phía mình, văn nghệ sĩ cũng có những sai lầm như “lập trường tư tưởng còn chưa rõ ràng; còn nông cạn, hời hợt khi viết về đời sống của quần chúng nhân dân; nhiều tác phẩm còn mắc bệnh tự nhiên chủ nghĩa, hình thức, giáo điều…”. Và để đạt được “những mục tiêu vĩ đại” do Đảng đề ra, văn nghệ sĩ cần “nỗ lực nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm và đường lối của Đảng và Nhà nước, giữ vững lập trường giai cấp, từng bước hoàn thiện tư tưởng và phương pháp sáng tác”.[193]
Tuy nhiên, những trí thức như Đào Duy Anh lại đòi hỏi phải có tinh thần khoa học: không biểu dương những sáng tác vội vã nếu như trước đó chưa có sự thẩm định nghiêm túc và khoa học về nội dung cũng như hình thức tác phẩm. Cảm hứng là tốt và cần thiết, nhưng chưa đủ. Chúng ta phải thừa nhận rằng, chúng ta rất thiếu… những người vừa có trình độ văn hóa và khoa học cao, đồng thời lại có óc sáng tạo.[194] 
Hội nghị đồng thuận đưa ra nghị quyết, trong đó nhiệm vụ của văn nghệ được miêu tả như sau: “Cổ vũ miền Bắc từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh thống nhất đất nước và tích cực xây dựng một nền văn nghệ dân tộc tiến bộ”.[195]  [v] Tuy nhiên cái được gọi là đồng thuận trong nghị quyết này vẫn không che giấu được những điểm khác biệt cố hữu, những điểm đã xuất hiện mạnh mẽ trong các cuộc tranh luận trong và sau hội nghị. Tổng Bí thư Trường Chinh, người miêu tả Nhân văn như một “cơ quan tác động tinh thần của địch” chống nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đã phê bình gay gắt phong trào Trăm hoa đua nở: “Hoa nào tốt thì mới nên được nở, còn hoa thối, hoa độc thì phải loại bỏ. Và ngay khi Trường Chinh đang phát biểu, ông đã bị những người đối kháng phản đối mạnh mẽ”.[196]
Phan Khôi giơ tay phát biểu, và điều này “đã gây ra một không khí lộn xộn lớn trong phòng hội nghị”, bởi vì Phan Khôi đòi “tự do… trình bày quan điểm trên báo chí”, để quần chúng hiểu sự thật về những người bị cáo buộc. “Phan Khôi đòi những bằng chứng cụ thể cho những điều Trường Chinh nói mà không có bằng chứng. Một thành viên của chủ tịch đoàn cắt lời và đề nghị Phan Khôi trình bày vào dịp khác, vì thiếu thời gian.” Cả Phùng Quán, tác giả Vượt Côn Đảo, cũng tấn công Trường Chinh: “Người ta cứ nói mãi về sự thống nhất quan điểm giữa văn nghệ sĩ. Tôi xin nói rằng không hề có sự thống nhất. Sự thống nhất đó đã bị phá vỡ. Chúng tôi đều có những thắc mắc, những dằn vặt kìm nén chất chồng. Chỉ có một cách để thống nhất quan điểm, đấy là phải cho chúng tôi tự do nói ra quan điểm của mình. Nếu còn bắt chúng tôi im lặng thì không thể có sự thống nhất quan điểm hay đoàn kết được”. Về yêu cầu “loại bỏ những hoa thối” của Trường Chinh, Phùng Quán nói: “Cái khó là làm thế nào biết được hoa nào thối, hoa nào độc… Vì thế người ta phải để việc đó cho phê bình, cho nhân dân phán xét, chứ không phải một nhóm người nào đó không phận sự. Thật quá tiện khi bảo chúng tôi chống Đảng, thực tế chúng tôi chỉ chống lại những sai lầm của Đảng.” Báo cáo kèm ghi chú: “Im lặng, không ai vỗ tay”. Trong khi đó, khi nhạc sĩ Đỗ Nhuận hùng hồn phát biểu chống lại Phùng Quán và Nhân văn, ông “được vỗ tay nhiệt liệt. Không khí rất căng thẳng. Người ta sợ có xô xát.”[197]
Các cuộc tranh luận chẳng dẫn tới đâu và ban lãnh đạo Đảng và nhà nước vẫn giữ nguyên lập trường không thỏa hiệp. Tuần báo Văn của Ban Chấp hành Hội Nhà văn xuất bản tháng 7.1957, vốn được Đảng sắp đặt như một “cây gậy tư tưởng”, đã, tương tự như tờ Trăm hoa của Nguyễn Bính, sớm quật trở lại Đảng, và bị đình bản sau 37 số. Tuần báo Văn bị phê phán là “ảnh hưởng tư tưởng tư sản” và “xa rời đường lối văn nghệ phục vụ công nông binh”.[198] Theo đó, “nhiều văn nghệ sĩ… những năm qua đã xa rời thực tế chính trị và không hiểu được những thay đổi đang diễn ra. Họ không hiểu mục đích thực sự của cuộc đấu tranh chống sùng bái cá nhân mà lợi dụng nó để chống lại sự lãnh đạo của Đảng. Bên cạnh đó nhiều nhà văn còn chịu dao động bởi những tư tưởng như của Sartre.”[199]
Các thành viên của Nhân văn bị cho là đã tìm được nơi “lẩn lút” bên cạnh các đồng nghiệp ở báo Văn, những người lâu nay vốn chưa bị qui là dao động, và tại nơi ẩn náu này, họ tiếp tục việc chống phá. Theo đó, báo Văn đã không hoàn thành nhiệm vụ được giao trong việc: “tiếp tục cuộc thanh lọc tư tưởng, vốn bắt đầu từ Đại hội 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô, từ khẩu hiệu Bách hoa tề phóng của Trung Quốc và sau những sự kiện Hungary (dù đã bị dập tắt nhưng chưa thể coi là đã xong hẳn)”. Tạp chí Cứu quốc, nơi đăng bài thơ “Gửi những người mai sau” của Bertolt Brecht, cũng bị phê phán nặng nề. Bài thơ của Bertolt Brecht được dịch từ tiếng Pháp và in ở Nhà xuất bản Hội Văn nghệ năm 1957 “được những kẻ xét lại, cụ thể là Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm ca tụng. Lời nói đầu do Huy Phương, cũng là một kẻ xét lại, viết.” Trong bản dịch của mình, Trần Dần đã “sử dụng thủ pháp biểu tượng hai mặt để xuyên tạc Bertolt Brecht, hòng lợi dụng Bertolt Brecht để ám chỉ chế độ ta”, bởi vì: “Quả tôi sống những ngày đen tối lắm / Những lời nói ngây thơ là những lời nói dại khờ… Thời thế gì/ Mà nói đến cỏ cây / Cũng như đã phạm vào tội ác”.[200]
Hội nghị Moskva của 12 Đảng Cộng sản cầm quyền thuộc khối Liên Xô–Trung Quốc nhân kỉ niệm 40 năm Cách mạng tháng Mười cuối năm 1957 đã dẫn tới sự đồng thuận hoàn hảo giữa Khrushchev và Mao Trạch Đông, ít nhất là ở quan điểm cần phải chấm dứt sự dao động trong lãnh đạo trí thức và văn nghệ. Ngày 6.1.1958, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô ra quyết định thắt chặt công tác trí thức.[201] Tại Việt Nam, các khóa chỉnh huấn “học tập các văn kiện Mạc Tư Khoa” được tổ chức dồn dập cho văn nghệ sĩ, giảng viên đại học và trí thức.[202] Bộ Chính trị tuyên bố “tiến hành chỉnh huấn toàn diện với các văn nghệ sĩ”, để văn nghệ sĩ “học tập sự khác nhau giữa quan điểm tư sản và quan điểm xã hội chủ nghĩa”. “Một số ‘lý luận gia’, ‘học giả’ của chủ nghĩa xét lại trong văn nghệ như Trương Tửu, Phan Khôi là những người đã có nhiều ‘thành tích’ trong việc xuyên tạc chủ nghĩa Mác, hoặc chống lại chủ nghĩa Mác hàng chục năm nay”, Nguyễn Đình Thi phát biểu trong bài “Chống chủ nghĩa xét lại trong văn nghệ” đăng trên báo Học tập số 3 năm 1958. Các khuynh hướng xét lại được thể hiện trong văn nghệ như thế nào? Theo Nguyễn Đình Thi, những điểm chính của nó là “chống lại đường lối văn nghệ phục vụ chính trị, phục vụ công nông binh, chống lại sự lãnh đạo của Đảng. Nó đưa ra nhiều khẩu hiệu trống rỗng về ‘tự do’, ‘chân thành’, ‘tìm cái mới’, v.v… thật ra đó chỉ là những khẩu hiệu của ‘nghệ thuật vị nghệ thuật’ cũ rích.”[203]
Không lâu sau đó, tất cả đều rõ rằng người ta muốn phân biệt rạch ròi giữa gạo và cám: tại khóa chỉnh huấn ở ấp Thái Hà với sự tham dự của 304 văn nghệ sĩ, trong đó cũng có 20 người Nhân văn, tuy nhiên 4 thành viên khác của Nhân văn là Trương Tửu, Phan Khôi, Trần Duy và Nguyễn Hữu Đang thì không được phép tham gia, vì họ bị coi là “những phần tử chống đối ra mặt”, những kẻ phản bội lý tưởng chủ nghĩa xã hội và “bị báo chí vạch mặt trước công luận”.[204] Bốn người bị loại bỏ hiểu rằng, họ đã chính thức bị coi là kẻ thù của chế độ và chờ đợi sẽ phải gánh chịu những hậu quả nặng nề nhất. Ví dụ Phan Khôi bị tố là một “tên phản trắc”, một kẻ đã luôn phản bội tổ quốc trong tất cả các phần đời của mình, là “gián điệp cũ của Pháp” và “kẻ thù công khai của chủ nghĩa cộng sản”. Trần Duy cũng bị cáo buộc “làm mật thám cho Pháp”. Giáo sư văn chương Trương Tửu bị chửi là một “kẻ bất mãn có lịch sử và là một tên tờ-rốt-kít vô tổ quốc”, kẻ ngay từ những năm 1932/33 đã có những bài phê bình văn học in tại một “nhà xuất bản của bọn tờ-rốt-kít” và năm 1945 đã dịch một tuyên ngôn của Romain Rolland về độc lập trí thức.[205]  Rốt cuộc thì cả triết gia Trần Đức Thảo, sáng lập viên tờ Les Temps Modernes, cũng bị đưa ra đấu. Đầu những năm 1950, Trần Đức Thảo đã từ Paris trở về để gia nhập cách mạng. Trong thời gian giữa tháng 3 và tháng 4 năm 1958, ông đã phải chịu một cuộc đấu tố công khai không khoan nhượng tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội, mà người đứng ra tố ông lại chính là Phạm Huy Thông, người bạn thân nhất của ông trong hàng thập kỉ.[206] 
Đầu năm 1958 xuất hiện những bài viết tấn công gay gắt những quan điểm “xét lại” trên tuần báo Văn – “những quan điểm không thể chấp nhận được trong chế độ chuyên chính công nông của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động… với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Đây là hệ quả của “những hoạt động lâu năm của một nhóm phản động gian ác với mục đích thủ tiêu những thành tựu của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ Cách mạng tháng Tám tới khi hòa bình lập lại (1954), để lập lại chế độ tư sản”.[207]  Ngôn từ được sử dụng trong các bài báo này không còn có tính xoa dịu và thỏa hiệp như vài tháng trước đây nữa, mà trở nên cứng rắn, giáo điều, đầy vẻ đe dọa. Từ tháng 7.1958, những trí thức liên quan bị “đưa đi thực tế”, nghĩa là bị đưa về các vùng nông thôn hoặc các xí nghiệp quốc doanh để làm việc chân tay dưới những điều kiện hết sức khắc nghiệt, thậm chí nguy hiểm tới tính mạng – để họ có thể cải tạo thông qua việc tiếp xúc với quần chúng. Tất cả những người này đều phải viết tường trình thừa nhận tội lỗi và bày tỏ sự ân hận. Vài người bị liệt vào hạng ly khai và bị khai trừ ra khỏi Đảng. Báo chí không còn tờ nào dám hé răng phê phán gì nữa, nội dung báo chí trở nên “nghèo nàn, đơn điệu và không còn hấp dẫn bạn đọc”.[208]
Từ tháng 1.1958, thông qua phong trào “thực hành văn hóa”, tất cả các văn nghệ sĩ cần “có khả năng sáng tạo ra các tác phẩm xã hội chủ nghĩa chân chính”[209], bằng cách “hòa mình với quần chúng”.[210] Đặc biệt các văn nghệ sĩ ly khai cần phải “tìm thấy ở đó vũ khí giúp họ gột rửa những tư tưởng Nhân văn”.[211] Trường Chinh, người hẳn có ý thức rất rõ về vai trò của văn nghệ sĩ và trí thức đối với Đảng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã tỏ ra là người nhìn xa, bởi vì từ lâu ông đã thấy “giáo dục là phương tiện cơ bản để giúp các đồng chí lầm đường lạc lối có thể sửa chữa sai lầm”, với mục đích “loại bỏ bệnh tật, nhưng vẫn giữ được mạng sống cho người bệnh”[212]. Các khóa chỉnh huấn được diễn ra liên tục, và các văn nghệ sĩ và trí thức phải viết đi viết lại các bản kiểm thảo tự phê bình. Giáo sư Đặng Thai Mai, nhạc phụ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đề xuất các biện pháp thực tế. Trong bản báo cáo tại Đại hội Văn học Nghệ thuật tháng 1.1959, với tư cách Chủ tịch Hội, ông phát biểu: “Chỉ khi người văn nghệ sĩ cùng sống với dân, cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm, anh ta mới nhận ra được bản tính thông minh, tâm hồn trong sáng và lối sống giản dị của họ trong những sinh hoạt hàng ngày. Người văn nghệ sĩ mới cảm nhận được sự kiên trì bền bỉ để vượt qua những khó khăn gian khổ của nhân dân, những người đang tích cực xây dựng một cuộc đời mới và một tương lai hạnh phúc trên đất nước ta theo tiếng gọi của Đảng.”[213]
Trên thực tế, các nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ liên quan tới Nhân văn đều bị cấm xuất bản. Lương tháng của họ bị cắt giảm khiến họ bị rơi xuống mức sống gần như bần hàn, ngay cả phiếu gạo của họ cũng bị xà xẻo. Lê Đạt sống được là nhờ mẹ ông, một người buôn bán tháo vát. Các đồng nghiệp khác đều phải tìm mọi cách để kiếm thêm thu nhập. Suốt những năm dài, Hoàng Cầm đã bán hàng nước tại căn hộ ọp ẹp của ông ở Hà Nội, ở cái thời bao cấp mà tất cả hàng hóa đều bị cấm, và trong cái bầu không khí của Hà Nội “rầm rập lính tráng và cán bộ, sôi sục các hoạt động quân sự và chính trị”,[214] ông đã phải bán thêm rượu (lậu – dĩ nhiên). Một thời gian ông và Trần Dần đã phải kéo xe tay đến mức gần như kiệt sức cho một xưởng cưa để kiếm sống. Đối với các trường hợp có kết án chính thức, thường người ta chỉ không được hành nghề một hai năm. Tuy nhiên đối với hầu hết những người Nhân văn, bản án đó đã kéo dài ba mươi năm. Nhà thơ Lê Đạt bị đưa lên miền núi, tuy nhiên sau 10 năm, ông vẫn bị coi là “mal éduqué” – cải tạo không tốt. “Tôi bị người ta xem như một tên phản động, một kẻ bệnh hoạn. Tất cả đều tránh mặt tôi, cả bố tôi cũng vậy. Tôi bị đối xử như một kẻ tà đạo trong một tòa án dị giáo”, Lê Đạt hồi tưởng lại trong cay đắng. Ông đã phải sống bên lề xã hội ba mươi năm.[215]  Người bạn Tử Phác của ông phải lao động 1 năm trong một trại nuôi bò ở Quảng Bình, trước khi được trở về Hà Nội. Họa sĩ Bùi Xuân Phái – giống như một số văn nghệ sĩ và trí thức khác, đã rời hàng ngũ kháng chiến cuối những năm 1940 để về thành, do không chịu được đói rét và bệnh tật[216]  – Bùi Xuân Phái chỉ tham gia Nhân văn bằng một bức biếm họa. Tháng 10.1956, ông đã phải làm một cuộc tự phê bình nhục nhã và đánh mất vị trí giảng viên tại Đại học Mỹ thuật. Tranh của ông bị cấm trưng bày. Ông bị mất địa vị xã hội và nguồn thu nhập.[217]  Các học giả tầm cỡ như Trần Đức Thảo,[218] Nguyễn Mạnh Tường hoặc Đào Duy Anh tuy được phép ở Hà Nội, nhưng họ bị cho “ngồi chơi xơi nước”, họ trở thành những người bị xua đuổi, những kẻ vật vờ, bị cách ly khỏi tất cả các tầng lớp xã hội, bị bỏ đói. Họ bị nghi ngờ, bị giám sát từng bước và bị các học trò và đồng nghiệp cũ xa lánh (với lời đe dọa tống vào hỏa lò), đến mức họ gần như trở nên mất trí.[219]  Đến những năm 1970 và 1980, vài người trong số họ bị bỏ tù lâu năm mà không có án, ví dụ như nhà văn Phùng Cung bị giam từ 1960 đến 1972 ở Lào Cai.[220] Giữa năm 1982, nhà thơ Hoàng Cầm cũng bị bỏ tù 18 tháng – sáu tháng đầu ở Hà Nội và một năm sau bị nhốt ở nông thôn trong sự khủng bố tinh thần thường trực: Hoàng Cầm thường nghe thấy những âm thanh ghê rợn không rõ từ đâu. Vì có liên hệ với giới văn nghệ hải ngoại, Hoàng Cầm liên tục bị nghe lén, và ông đã phải viết đi viết lại những bản kiểm thảo, tới lúc ông phải “thú hết” theo yêu cầu.[221] 
Tháng 6 năm 1958, nhà chính trị đầy quyền lực, nhà lãnh đạo văn nghệ kiêm nhà thơ Tố Hữu cùng người bạn thơ đồng thời là người đồng hành chính trị nhiều năm, Huy Cận, hồi đó là Thứ trưởng Bộ Văn hóa, đã báo cáo về kết quả các hoạt động văn hóa những năm qua và đưa ra các nhiệm vụ trong những năm tới. Họ nói về những kẻ “phản bội” trong công tác văn hóa thông qua sự “gian trá” của nhóm Nhân văn – Giai phẩm. Hai tác giả lưu ý “đến nay… vẫn còn những sách báo phản động, chống Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và chống Hồ Chủ tịch” tại các quầy sách “tư nhân”.[222] Tuy nhiên, trong báo cáo tổng kết khóa họp thứ 14 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, “những phần tử phản động đã bị đánh trả quyết liệt và sự tấn công của bọn tư sản đã bị chúng ta đập tan”.[223] Cùng thời gian này, thông tín viên của Thông tấn xã CHDC Đức AND ở Hà Nội, Erwin Brochers (tức Chiến Sĩ), báo cáo về Berlin: “… bọn chủ nhiệm và bọn cộng tác viên (của Giai phẩmNhân văn) đã ra sức làm rối loạn tư tưởng và làm suy giảm niềm tin của độc giả… bọn này đã không từ bỏ thủ đoạn nào trong việc xuyên tạc sự thật và phủ nhận vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam… cũng giống như các hoạt “tâm lý” của Cơ quan Tuyên truyền của Pháp trước đây… việc bình luận báo chí vô trách nhiệm và ủng hộ các quan điểm tư sản cũ rích về văn nghệ và tự do văn nghệ cho thấy bọn chúng là những tên xét lại đúng nghĩa.”[224]
Mục đích của Đảng là làm cho trí thức văn nghệ sĩ tin vào lý tưởng. Các văn nghệ sĩ có nhiệm vụ làm cho quần chúng tin rằng lý tưởng có thể đạt được, nếu tất cả đều phục tùng kỷ luật Đảng. Đồng thời việc này cũng củng cố niềm tin của Ban lãnh đạo Đảng và nhà nước vào sứ mệnh thần thánh của mình. Nếu như giới lãnh đạo chỉ xem các văn nghệ sĩ như những kẻ lầm đường lạc lối, những kẻ ngây thơ nhưng hữu dụng, những con cừu (cần thiết), những kẻ có thể (và cần phải) cải tạo, thì với một cái đầu chính trị tầm cỡ như Nguyễn Hữu Đang lại khác. Ông bị chính thức tuyên bố là “kẻ thù” của dân tộc. Ngày 11 tháng 3 năm 1958, Tố Hữu, “Ủy viên Bộ Chính trị kiêm Trưởng Ban Văn hóa Bộ Chính trị”, đã thông báo cho các đại diện ngoại giao của các nước xã hội chủ nghĩa ở Hà Nội về sự phân loại “các lực lượng chống đối trong văn nghệ”. Dưới đây tôi xin trích dẫn hồ sơ của Đại sứ quán CHDC Đức ở Hà Nội, bởi nó có thể rọi sáng vào phiên tòa kết tội Nguyễn Hữu Đang ở Hà Nội năm 1960. Nó cho thấy người ta đã chuẩn bị kĩ lưỡng như thế nào cho việc khởi tố ông:
Nhóm 1: Những tên phản bội, từng làm việc cho Pháp, có kinh nghiệm về chiến tranh tâm lý, có thời đã làm cho cơ quan thông tin và tuyên truyền của Pháp. Có tên từng là nhân viên Phòng Nhì của Pháp. Những tên này lợi dụng Hiệp định Genève để ở lại… hoặc trở lại miền Bắc. Núp dưới các hoạt động văn nghệ, chúng tiếp tục các hoạt động chống phá cách mạng trước đây.
Bọn này là những cái loa cho các chương trình phát thanh của Mỹ và ngụy quyền miền Nam.
[…] đối với mỗi tên này đều (có) một bộ hồ sơ đầy đủ về các quan hệ phản bội và các hoạt động chống nhân dân của chúng […]
Nhóm 2: Những phần tử tờ-rốt-kít, đặc biệt trỗi dậy từ hai năm cuối sau  Đại hội 20 Liên Xô. Những tên này thường núp dưới lớp vỏ chống độc tài và chống chủ nghĩa Xta-lin để liên tục tiến hành các cuộc tấn công chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội và chống Liên Xô.
Vài văn nghệ sĩ bị nhiễm các lập luận tờ-rốt-kít, mặc dù chúng không thừa nhận là tờ-rốt-kít. Vài tên trong số này có vị trí trong ngành điện ảnh, hội nhà văn, các nhà xuất bản và các trường đại học.
Nhóm 3: Đây là những phần tử bất mãn, những kẻ bị mất quyền lợi cá nhân trong xã hội cũ. Đó là những tên bị mất quyền lợi trong Cải cách Ruộng đất hoặc là thân nhân của bọn địa chủ phong kiến cũ. Cũng có những tên bất mãn với vị trí xã hội hiện tại, trong đó có cả những tên từng là đảng viên. Một số tên trong đó có thể cải tạo được. Tuy nhiên Tố Hữu lưu ý phân loại, vài kẻ trong số này rất dễ bị mua chuộc. Điều tra cho thấy, những tên bỉ ổi nhất trong số này đã được bọn tư sản ủng hộ về tài chính, cho nhà cửa để làm nơi tụ họp cho các nhóm phản động. Một số ngôi nhà tư sản đã trở thành điểm trụy lạc cho một số  văn nghệ sĩ.[225]
Đại sứ quán CHDC Đức ở Hà Nội báo cáo rằng, Đảng Lao động Việt Nam không còn cách nào khác là phải điều tra những tên phản động. Quá trình điều tra đã chỉ ra, “nhiều tên trong nhóm là gián điệp của Pháp, từng có liên hệ với những ông chủ cũ”, bởi vậy cơ quan an ninh Việt Nam bắt buộc phải “bắt ba tên thành viên của nhóm này”.[226] Và ngày 10 tháng 4 năm 1958, “ba tên bỉ ổi nhất” là Nguyễn Hữu Đang, Lưu Thị Yến (tức Thụy An) và Trần Thiếu Bảo (tức Minh Đức) đã bị bắt giam tại Hỏa Lò và khởi tố vì tội phản động (chứ không phải vì tội tham gia Nhân văn – Giai phẩm).[227] Nhận được những tin báo cho thấy bị dồn vào đường cùng, Nguyễn Hữu Đang đã tìm cách đến Hải Phòng để bỏ trốn ra nước ngoài, nhằm tiếp tục tiến hành cuộc đấu tranh ở hải ngoại để thống nhất đất nước, tuy nhiên trong chuyến đi này ông đã bị phản bội và bị bắt. Có nhiều chỉ dấu cho thấy ông đã bị gài bẫy. Theo như Nguyễn Hữu Đang kể lại, ông đã muốn tới Ấn Độ và Nam Tư để gặp Nehru và Tito, những người mà ông “tin tưởng” như những đại diện cho một chủ nghĩa xã hội khác, một chủ nghĩa xã hội tự do hơn[228]. Để tiến hành “vạch mặt” Nguyễn Hữu Đang và hai người bị bắt trước công luận, ngày 15.4.1958, báo Nhân dân đăng bài của Mạnh Phú Tư, trong đó tác giả cáo buộc Nguyễn Hữu Đang là kẻ “đầu cơ cách mạng”, cả đời “mưu đồ làm phản, mưu đồ vương bá”, sau hòa bình lập lại đã không ngừng câu kết với “những phần tử tư sản phản động và bọn gián điệp của đế quốc để lại”. Nguyễn Hữu Đang đã trở thành một “tên phản cách mạng”, “tên phá hoại đầu sỏ rất nguy hiểm”.[229]
Tháng 10 năm 1960, tại Hội nghị Học tập Nghị quyết Đại hội lần thứ ba của Đảng, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có bài phát biểu trước các văn nghệ sĩ (tức những người làm “công tác văn hóa”). Về “điểm nổi bật trong tình hình miền Bắc nước ta trong thời gian gần đây”, ông cho rằng đã “xuất hiện những bông hoa…, những cái chồi đầu tiên của chủ nghĩa xã hội”. Ông giao nhiệm vụ cho các văn nghệ sĩ: “… phải phản ánh được cái mới trong xã hội, làm sao cho mọi người thấy được cái nụ, cái chồi, cái bông hoa mới của chủ nghĩa xã hội… phải thấy được nó, diễn tả, biểu dương, ca ngợi nó, giúp cho nó sống và nảy nở… Diễn tả cho được nhất định là có sáng tạo”. Trong khi các văn nghệ sĩ tư sản cũng miêu tả cùng một hiện thực, nhưng họ miêu tả bằng tầm hồn và tư tưởng cá nhân, thì các nghệ sĩ xã hội chủ nghĩa lại hoàn toàn khác, bởi họ “miêu tả và phản ánh hiện thực bằng tâm hồn và tư tưởng xã hội chủ nghĩa”. Văn nghệ sĩ phải luôn lạc quan và sống với hiện thực, họ phải miêu tả “những con người đương vươn lên với chế độ, với chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Đó là “những người công nhân, những người nông dân xã viên hợp tác xã, những người chiến sĩ bộ đội, những người trí thức cách mạng, những người thanh niên, những người phụ nữ”. Đó là những người lớn lên và trưởng thành trong cách mạng: “Phải thấy những con người mới này trong tư tưởng và tình cảm, trong đạo đức và nhân sinh quan mới của họ. Miêu tả những con người mới này là miêu tả xã hội mới, đời sống mới, làm nổi bật bản chất tốt đẹp của chế độ ta, lực lượng sáng tạo vô biên của nhân dân ta” – đó là nhiệm vụ chính của văn nghệ. Trong đó, “đường lối, chính sách của Đảng soi đường cho những người xây dựng chủ nghĩa xã hội và người hoạt động văn hóa nghệ thuật”.[230] Tư tưởng trong “Bức thư gửi đồng chí họa sĩ” của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1951, trong đó Chủ tịch nói rõ, văn nghệ cũng là một mặt trận trong kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội, vẫn còn nguyên giá trị.
Vài năm sau, tức năm 1964, Mao Trạch Đông được tôn vinh là “người thầy vĩ đại của thi ca”, bởi vì “trong hoàn cảnh cuộc đấu tranh chống Mỹ còn kéo dài và cuộc đấu tranh phức tạp bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, chống chủ nghĩa xét lại hiện đại, những bài thơ của Mao Chủ tịch có ý nghĩa giáo dục to lớn, bởi chúng thể hiện mạnh mẽ tinh thần cách mạng”.[231]
Trở lại Mục Lục

10. Bản án
Tháng 1 năm 1960 diễn ra phiên tòa chống lại những người bị cáo buộc làm gián điệp. Trần Duy, Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt không thuộc số những người bị khởi tố, mà, như Hoàng Cầm nhớ lại, họ chỉ xuất hiện như những nhân chứng. Họ phải có mặt ở phiên tòa 5 ngày liền để phục vụ yêu cầu của tòa án. Phan Khôi, như đã nói ở trên, bị báo chí năm 1958 quy kết là “một phần tử hoạt động nguy hiểm” cho Pháp, đã qua đời đầu năm 1960, chỉ vài ngày trước khi phiên tòa diễn ra.
Nguyễn Hữu Đang không bị khởi tố với tư cách là lãnh tụ chính trị của Nhân văn, mà, một mặt ông bị cáo buộc làm gián điệp, mặt khác ông bị kết tội vì tổ chức trốn chạy khỏi miền Bắc thông qua sự trợ giúp của một “tổ chức”. Trong bài “Nguyễn Hữu Đang – Tên phản động đầu sỏ” trên báo Nhân dân ngày 15.4.1958, tác giả Mạnh Phú Tư đã chuẩn bị cho việc kết tội Nguyễn Hữu Đang như sau: “Hòa bình lập lại, Nguyễn Hữu Đang trở về Hà Nội cùng bọn phản cách mạng khoác áo ‘kháng chiến’. Tại đây hắn đã câu kết với các phần tử tư sản phản động và bọn gián điệp do đế quốc để lại. Cùng tên Trần Thiếu Bảo tức Minh Đức, một tên tờ-rốt-kít chuyên xuất bản các tài liệu phản quốc để kiếm lời đút túi, Nguyễn Hữu Đang đã dụ dỗ mua chuộc những văn nghệ sĩ bằng tiền của bọn tư sản. Chúng đã liên tục cho ra những tập Giai phẩm…”.[232] Tuy nhiên, lại có rất ít thông tin về diễn biến của phiên tòa cũng như về số phận của các bị cáo. Các kho lưu trữ của Cộng hòa Dân chủ Đức, vốn có rất nhiều tài liệu giá trị về hầu hết các lĩnh vực nội chính của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lại không cung cấp bất kì câu trả lời nào cho sự kiện quan trọng này.[233] Bởi vậy, với hiện trạng thông tin hiện nay, chúng tôi đành phải dựa phần lớn vào những lời kể của nhân chứng và những đồn đoán (thường không phải khi nào cũng có nhiều thông tin), mà trong đó sự thật nhiều khi bị trộn lẫn cùng giai thoại.
Còn những bị cáo khác là ai? Thực ra, họ đều không thuộc nhóm những người thân cận nhất của các văn nghệ sĩ Nhân văn – Giai phẩm, mà chỉ là những người ủng hộ hoặc các cộng tác viên bên lề.
 
Phiên tòa ngày 19/1/1956 tại Toà Án Nhân Dân Hà Nội.
Từ trái sang phải: Lê Nguyên Chí, Phan Tại, Lưu Thị Yến (Thụy An),
Trần Thiếu Bảo (Minh Đức) và Nguyễn Hữu Đang
Đứng đầu bảng là Thụy An tức Lưu Thị Yến. Thụy An sinh năm 1916 trong một gia đình đại tư sản ở Hà Nội. Năm 1930, Võ Nguyên Giáp đã tới làm thầy giáo tư dạy sử địa cho Thụy An, và ông được cho là mối tình đầu của bà. Thụy An được kể lại như một phụ nữ đặc biệt quả cảm, vượt lên trên các khuôn phép thông thường của của một xã hội Khổng giáo-tiểu thị dân.[234] Đời sống cá nhân và các hoạt động chính trị của bà bị bao phủ bởi một màn sương mù bí ẩn, tuy nhiên, không nghi ngờ gì, bà là một trong những nhà văn nữ quyền đầu tiên và là nhà báo tiên phong của Việt Nam. Bà là người chủ trương tờ Đàn bà mới tại Sài Gòn năm 1934 và Đàn bà ở Hà Nội năm 1937, những tờ báo dành cho phụ nữ đầu tiên ở Việt Nam. Tiểu thuyết Một linh hồn xuất bản năm 1942, tác phẩm duy nhất của một tác giả nữ được Vũ Ngọc Phan đưa vào cuốn Nhà văn hiện đại, có thể coi là cuốn tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của một nhà văn nữ Việt Nam. Bên cạnh đó, bà còn viết những bài thơ yêu nước, chống thực dân Pháp. Trong kháng chiến, Thụy An ở Hà Nội và làm việc cho Radio Vietnam, trong đó không ít lần bà làm công việc của một phóng viên chiến trường. Năm 1954, bà được phong chức Quyền Giám đốc của Agence France Presse ở Hà Nội. Về chính trị, bà ủng hộ Việt Nam Quốc dân Đảng. Hình dung của bà về con đường đấu tranh giành độc lập cũng như tương lai của Việt Nam hậu thuộc địa chịu ảnh hưởng bởi chủ trương chính trị của phe Quốc gia. Sau khi chia tay với chồng, ông Bùi Nhung,[235] giám đốc Radio Hà Nội, một người xuất thân trong một gia đình Quốc dân Đảng nổi tiếng, khi hai người đã có 6 người con, Thụy An sống chung với Đỗ Đình Đạo, cũng là một yếu nhân của Quốc dân Đảng. Khi Đỗ Đình Đạo chết một cách bí ẩn, ở Hà Nội lan truyền tin đồn Thụy An đầu độc chồng.[236] Theo như những gì được kể lại, năm 1954 Thụy An bay vào Sài Gòn,[237] nhưng sau đó lại trở ra Hà Nội – không có ai biết tại sao bà vào Nam rồi lại trở ra Bắc. Phải chăng bà muốn tiếp tục đấu tranh cho lý tưởng Quốc dân Đảng ở miền Bắc? Liệu đây chính là điểm khiến bà bị cáo buộc là gián điệp do Pháp để lại? Điều chắc chắn là bà “có nhiều quan hệ với người Pháp và các giá trị Pháp” – bà Thụy Khuê thuộc đài RFI tiếng Việt cho tôi biết như vậy. Tuy nhiên, liệu Thụy An có liên hệ với Phòng Nhì của Pháp hay không, thì, với các tài liệu đã được công bố hiện nay, chúng ta chưa thể xác định được. Cùng với Phan Tại – người sẽ được nói tới ngay dưới đây, Thụy An đã dựng vở kịch Topaze của Marcel Pagnol ở Hà Nội, và đây cũng là một lý do nữa để người ta bắt giam bà: đối với giới lãnh đạo cộng sản thì việc biểu diễn một vở kịch của Pháp (trong đó, sự mua chuộc, sự tham nhũng, lòng tham của cải vật chất và sự phản bội có hệ thống của các quan chức cộng hòa bị mổ xẻ không khoan nhượng) hồi đó là một hành động phản cách mạng. Theo đó, vở kịch Topaze đã phá hoại đường lối chính sách của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (trong khi có rất nhiều vở kịch của Liên Xô nhưng Thụy An lại không dựng!). Cáo trạng cho biết, tất cả các hoạt động của Thụy An đều cho thấy, đây là một kẻ đối lập chính trị nguy hiểm, kẻ lôi kéo văn nghệ sĩ về phía mình để chống lại chính quyền.
Trong giai đoạn Nhân văn, Thụy An được Phan Khôi nhận làm con gái nuôi. “Chị ấy rất thân với anh em Nhân văn. Rất thân với Lê Đạt. Tôi không thân với chị ấy, chúng tôi chỉ quen biết nhau thôi”, Hoàng Cầm nhớ lại. Trần Duy kể rằng, Thụy An có gửi 3 bài thơ tới Nhân văn, nhưng ông đã từ chối đăng, vì trung thành với đường lối của Nguyễn Hữu Đang: “Mình đều là dân kháng chiến trở về, mình không nên quan hệ với bà ta” – Nguyễn Hữu Đang nói.[238] (Thụy An đã ở lại khu Pháp trong thời gian kháng chiến). Bà bị kết án 15 năm tù giam và 5 năm quản thúc tại địa phương. Theo như nhiều nhân chứng kể lại, trong tù bà đã tự chọc mù một mắt – “Chọc mù mắt để không phải nhìn thấy cái thế giới này nữa”, bà đã nói như vậy. Nhiều người cùng thời đã đánh giá thái độ đáng sợ này của bà như một biểu hiện của sự cao ngạo.
Hoàng Cầm kể rằng, tại phiên tòa người ta cũng chỉ nói rất ít tới “gián điệp”. Người ta đọc một bức thư của nhà nhân chủng học kiêm Giám đốc Viễn đông Bác cổ của Pháp ở Hà Nội, Maurice Durand, gửi Thụy An. Theo cáo buộc của Viện Công tố thì Giáo sư Durand là người của Phòng Nhì (Cơ quan Tình báo Quân sự của Pháp). Trong bức thư gửi Thụy An vào thời điểm Nhân văn số 1 ra mắt, Durand viết: “Giờ bà hãy đứng ngoài, nhưng phải để mắt trông nom mọi việc của các văn nghệ sĩ”. Bức thư này được coi là bằng chứng cho việc khởi tố Thụy An về tội làm gián điệp. Cách đây vài năm, Nguyễn Hữu Đang có nói với một người thân tín ở Hà Nội rằng, tại tòa Thụy An đã thừa nhận mọi tội trạng, và qua đó bà không những gián tiếp xác nhận cáo trạng mà còn gây áp lực nặng nề lên những bị cáo khác. Trong một lần gặp Thụy An thời gian ở tù, Nguyễn Hữu Đang đã trách Thụy An kiêu căng và độc ác, và bà đã tỏ ra ân hận vì hành vi thừa nhận tội trạng của mình. Tuy nhiên, chúng ta không bao giờ có thể đánh giá đúng hành vi nhận tội này ở mội phiên tòa nặng tính phô diễn, khi mà chúng ta không biết liệu những lời khai của bị cáo có được thẩm định không hoặc thẩm định theo cách nào,[239] nghĩa là, liệu những lời khai đó có phù hợp với những bằng chứng thu thập được hay không, hoặc phù hợp ở mức độ nào. Nguyễn Hữu Đang giải thích rằng, Hiệp định Paris 1973, hiệp định đã dẫn tới sự nới lỏng nhất định ở miền Bắc, đã cứu mạng sống và mang lại tự do cho ông năm 1974 – với Thụy An cũng vậy. Và cũng như Thụy An, khi được áp giải về quê[240] để chịu án quản thúc, Nguyễn Hữu Đang đã bị người ta ném đá. Nhờ thỉnh cầu của một người họ hàng, vài năm sau Thụy An được phép vào miền Nam. Năm 1978, bà đi tu trong một ngôi chùa. Bà qua đời năm 1989 ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị cáo thứ ba là Minh Đức,[241] tức Trần Thiếu Bảo, ông chủ nhà in nơi xuất bản các số Giai phẩmNhân văn. Minh Đức cũng xuất thân từ vùng quê Nam Định như Nguyễn Hữu Đang, nơi ông đã mở nhà sách đầu tiên những năm 1930. Ông thành lập nhà xuất bản Minh Đức ở Hà Nội, kiêm chức năng in ấn và phát hành. Tên của nhà xuất bản, Minh Đức, cũng trở thành tên hiệu của Trần Thiếu Bảo, đồng thời là tên chương trình xuất bản có tính khai sáng (về chính trị-xã hội) cho Việt Nam của ông. Minh Đức là một người yêu nước. Có lẽ ông đã cộng tác với Nguyễn Hữu Đang trong phong trào phổ cập chữ Quốc ngữ (từ 1936) và phong trào xóa nạn mù chữ (sau 1945), chẳng hạn như thông qua việc in sách giáo khoa. Sau Cách mạng tháng Tám, Minh Đức tiếp tục hoạt động xuất bản, sau đó ông tham gia kháng chiến. Tuy nhiên, vì không thể xuất bản ở chiến khu, ông quay trở về vùng Pháp đóng (Hà Nội) để hành nghề. Thời gian này ông xuất bản những cuốn sách có nội dung yêu nước, như sách về các anh hùng Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Trần Hưng Đạo và Nguyễn Thái Học – nhân vật gần như đã trở nên một huyền thoại hồi đó. Dễ hiểu tại sao Nguyễn Hữu Đang đã chọn nhà xuất bản Minh Đức để in Nhân văn.
Tại tòa, Minh Đức, người luôn nhận được giấy phép in nhờ những mối quan hệ cá nhân với các cơ quan văn hóa,[242] bị cáo buộc đã xuất bản các tác phẩm phản động; trong đó có các tiểu thuyết Số đỏGiông tố của Vũ Trọng Phụng, ngoài ra còn một số tác phẩm văn học lãng mạn và các bài nghiên cứu văn học của Hoàng Xuân Hãn, dù thực ra Minh Đức không hề xuất bản các tác phẩm chính trị. Trần Thiếu Bảo bị kết án 6 năm tù giam và 3 năm quản chế. Ông được thả năm 1973, nhưng không được phép về Hà Nội mà phải chuyển tới Nam Định. Tại đây ông làm công tác phát hành cho nhà xuất bản Xunhasaba. Ông mất năm 1980.
Trong số những người bị khởi tố còn có Phan Tại (mất năm 2007) và một người nữa có tên là Lê Nguyên Chí. Phan Tại, người không tham gia Nhân văn – Giai phẩm, sinh ở Hưng Yên, là điêu khắc gia và họa sĩ, tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Tuy nhiên, Phan Tại lại nổi nhất trong lĩnh vực điện ảnh và kịch nghệ. Năm 1945, mặc dù không quan tâm tới chính trị, ông vẫn tham gia Việt Minh và lãnh đạo một nhóm kịch cách mạng. Ông đã tổ chức nhiều buổi biểu diễn ở Hà Nội và Hải Phòng. Khi quân Pháp tấn công Hải Phòng, Phan Tại cùng đoàn kịch gia nhập kháng chiến. Năm 1948, ông cùng gia đình bị bắt trong một đợt càn của Pháp ở Hưng Yên, nhưng ông không bị bắt giam mà bị đưa về Hà Nội,[243] và tại đây ông lại lãnh đạo một nhóm ca múa nhạc. Đây là thời gian ông được “đánh giá rất cao”.[244] Tháng 5.1950, tại Nhà hát Lớn Hà Nội, ông đã dàn dựng nhiều vở ca múa nhạc với những bài hát của các tác giả cách mạng như Tiếng hát sông Lô của Văn Cao, Tiếng hát quay tơ của Tử Phác và Tiếng chuông nhà thờ của Nguyễn Xuân Phát. Sau Hiệp định Genève, Phan Tại ở lại Hà Nội và tiếp tục hoạt động trong một nhóm kịch gồm những người từ kháng chiến trở về cũng như những người ở lại thành. Ngôi nhà của Phan Tại tại 37 Trần Quốc Toản, cũng là nơi tá túc của Thụy An, ngay trong kháng chiến đã trở thành điểm tụ họp của nhiều văn nghệ sĩ. Sau khi Nhân văn bị cấm, trong khoảng thời gian 1957 – 1959, tại địa chỉ này đã hình thành một salon điện ảnh và văn chương xung quanh Phan Tại và Thụy An, mà Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán thường qua lại (nhưng không có Trần Duy). Tại phiên tòa, Phan Tại bị buộc tội vì đã cho Thụy An cùng sống ở ngôi nhà này. Ông bị kết án 6 năm tù giam và 3 năm quản thúc tại địa phương. Sau khi được thả, Phan Tại hoạt động điêu khắc và thiết kế các tượng đài anh hùng. Khi ông được mời tham gia dựng một tượng đài ở Quảng Nam, công an đã can thiệp khiến ông phải chấm dứt dự án. Ông phải làm mặt nạ cho các nhà hát để kiếm tiền. Ông sống nghèo khổ, thỉnh thoảng được bạn bè cưu mang. Phan Tại mất tháng 5 năm 2007.
Còn bị cáo thứ năm, Lê Nguyên Chí, là ai? Có vẻ như không ai thực sự biết người này là ai, ngay cả cái tên của ông ta cũng được các nhân chứng nhớ lại mỗi người một khác. Người thì bảo là Nguyễn Văn Thi hoặc Lý Nguyên Cát, có người lại bảo ông ta từng là tay chân của đế quốc Pháp. Hoàng Cầm kể câu chuyện đầy tính hoang đường kì bí như sau: “Đột nhiên xuất hiện một người lạ” – một người tầm tuổi 50, tóc đã bạc. Một ngày kia, ông ta đến trước nhà Phan Tại và dựng một cái hiệu cắt tóc vỉa hè, rồi ông ta lần lượt làm quen với những người sống ở đó, và chẳng bao lâu đã hình thành một mối quan hệ thân tình. Rốt cuộc, Lê Nguyên Chí đưa ra ý tưởng rủ cả nhóm chạy trốn trên một chiếc thuyền của em trai ông ta ở Hải Phòng… Như đã nói ở trên, tất cả những con người tuyệt vọng đó đã bị công an biển bắt giữ. Phải chăng Lê Nguyên Chí là một đặc tình, một nhân viên của Cơ quan An ninh Việt Nam? Trong phiên tòa, Lê Nguyên Chí là người duy nhất có sắc diện hồng hào, trong khi Nguyễn Hữu Đang và Thụy An thì xanh rớt, mệt mỏi và gầy gò. Bị ghép vào tội tham gia nhóm gián điệp, Lê Nguyên Chí bị tuyên 5 năm tù và 3 năm quản thúc – từ đó không một ai còn gặp lại ông ta nữa và nhiều người đã đặt ra câu hỏi: liệu việc kết án Lê Nguyên Chí có phải một vở kịch được dàn dựng hay không?
Chúng ta hãy trở lại với Nguyễn Hữu Đang. Ông bị bắt năm 1958. Thời gian đầu ông bị giam ở Hỏa Lò, nhà tù khét tiếng thời thuộc địa và nay là nơi tưởng niệm các nạn nhân của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đầu năm 1960, ông bị kết tội phản bội chính quyền cách mạng và làm gián điệp cho Pháp.[245] Lời biện minh của Nguyễn Hữu Đang trong thời gian điều tra, và, như ông khẳng định, trong một cuộc trò chuyện với Trường Chinh, về việc ông muốn ra nước ngoài để tiếp tục cuộc đấu tranh thống nhất đất nước,[246] giống như ngày xưa Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng hoạt động như một nhà ái quốc, một người cộng sản và một nhà cách mạng ở hải ngoại, đã bị đáp trả với một thái độ không hiểu và khoái trá gần như lên đồng: Thật buồn cười! – người ta nói với ông như vậy – Chúng ta chỉ có thể đấu tranh cho sự nghiệp thống nhất đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng! Trên thực tế, Đảng Leninist không hề tính đến cuộc đấu tranh của những cá nhân hoặc những nhóm nhỏ (ngoài Đảng); chỉ trong tư cách một đảng viên đầy kỷ luật, một trí thức hoặc một văn nghệ sĩ, người ta mới có thể có khả năng thay đổi thế giới và thay đổi đất nước mình – theo luận điểm thứ 11 của Mác về Feuerbach. Nguyễn Hữu Đang đã sống 15 năm ở trại giam Quyết Tiến ở Giàng (Hà Giang), cách biên giới Trung Quốc 20 km, trong điều kiện đói, lạnh (nhiệt độ từ -15 tới -10 độ C) ở độ cao 1500 mét, bị cách ly khỏi thế giới bên ngoài, và bị lãng quên,[247] và 15 năm nữa dưới những điều kiện khốn cùng và thường xuyên bị giám sát tại ngôi làng của ông ở Thái Bình. Với tư cách một tù nhân chính trị, ông bị coi là kẻ thù của dân tộc, và chỉ tới đầu những năm 1990, ông mới được phép trở lại Hà Nội. “Những người đấu tranh cho dân chủ chúng tôi đã bị làm cho tê liệt tinh thần”, ông thú nhận với tôi như vậy năm 1999.[248] Nguyễn Hữu Đang mất ngày 8.2.2007 ở Hà Nội.
Trở lại Mục Lục

11. Lời kết
Trong lần gặp cuối cùng của tôi với Huy Cận ở Hà Nội cuối năm 2001, chúng tôi cũng nói về Nhân văn – Giai phẩm. Ngay từ lần gặp đầu tiên năm 1997, giữa chúng tôi đã có một thỏa thuận rõ ràng – và được Huy Cận chấp nhận – là trong mối quan hệ này, chúng tôi có thể có những quan điểm rất khác nhau. Khi Huy Cận đến thăm tôi ở Paris năm 2001, ông khẳng định – tôi xin trích dẫn đại ý – các nhà ly khai đã đặt mục tiêu lật đổ chính quyền miền Bắc, vì vậy Đảng và Chính phủ đã không thể làm gì khác hơn như họ đã làm. Tôi bảo, ông nói thế thì trâng tráo quá, và ông đã cười vang đáp lại. Nhưng vài tháng sau, khi tôi đề cập tới Nguyễn Hữu Đang, và kể về người bạn đang ốm nặng Georges Boudarel, trong một khoảnh khắc, Huy Cận đã đánh mất đi vẻ hài hước châm biếm thường thấy (và thường là một vẻ hài hước châm biếm đầy trí tuệ và sảng khoái), ông trở nên suy tư, và ông nói về Nguyễn Hữu Đang: “Đó là một bi kịch lớn…, một thảm họa… Chúng tôi đã phạm nhiều sai lầm.”[249]
Thời kỳ đến nay vẫn được gọi là “bước ngoặt”, một cách tương đối và dè dặt, không có gì đảm bảo và luôn có thể bị đe dọa, chỉ bắt đầu từ tháng 10 năm 1987 dựa trên những cải cách do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh khởi xướng – căn bản trên đề xuất của tướng Trần Độ. Tuy nhiên đã không hề có sự phục hồi chính thức dành cho những người bị kết tội. Những vấn đề mà nhóm Nhân văn – Giải phẩm đặt ra, đặc biệt là những đòi hỏi về tự do biểu đạt và quyền công dân, đến nay vẫn còn hết sức thời sự. Cuối những năm 1980, một số nhà văn trẻ như Dương Thu Hương, Bảo Ninh hoặc Nguyễn Huy Thiệp, những người được coi là thuộc thế hệ vỡ mộng – thế hệ của cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước (đồng thời cũng là một cuộc nội chiến trong thời kì Chiến tranh Lạnh, hay là bước tiến cuối cùng của cách mạng) – cũng đã gây ra sự bất ổn, họ bị cấm xuất bản hoặc bị khám xét, hoặc thậm chí bị bắt giam (trường hợp Dương Thu Hương) và họ phải hứng chịu cơn giận giữ của cả hệ thống chuyên chế của Đảng và các cơ quan kiểm soát văn hóa. “Lĩnh vực văn nghệ phải do văn nghệ sĩ quản lý, chính trị không can thiệp”, Phan Khôi từng viết như vậy. Cuộc đấu tranh đòi tự do tư tưởng đã khiến giới cầm quyền ở Hà Nội năm 1956 sợ hãi cuống cuồng, bởi nó thách thức quyền lãnh đạo độc tôn về tinh thần. Với việc tiến hành chính sách giáo điều, thiển cận của Đảng từ cuối năm 1956, chủ nghĩa xã hội Việt Nam đã đánh mất tầng lớp trí thức-sáng tạo của mình, tầng lớp có năng lực và đã sẵn sàng cho công cuộc hiện đại hóa về văn hóa và khoa học, khiến cho chế độ có thể được dân chúng bên trong yêu mến và thế giới bên ngoài kính nể. Nhưng thay vì thế, những đảng viên và cán bộ văn hóa quan liêu của Việt Nam đã tự chặt đứt liên hệ với thế giới bên ngoài, thế giới của tri thức và của sự hoài nghi lành mạnh, cách ly khỏi tất cả những chủ đề thảo luận không phù hợp với chủ thuyết giáo điều của họ, xa rời tất cả những trào lưu văn hóa, tinh thần và khoa học của thời đại, để thúc thủ trong cái không gian thiển cận của đời sống tiểu nông tỉnh lẻ và trong sự giáo điều xơ cứng của mình.
Nhưng đấy lại chính là một trong những mục tiêu của cách mạng, và phong trào Trăm hoa đua nở là một trong những chặng đường chính của cuộc cải tạo cách mạng miền Bắc. Bởi vì mục đích của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hồi đó là mở rộng quyền lãnh đạo duy nhất và vô giới hạn của Đảng trong tất cả các lĩnh vực văn hóa, xã hội, kinh tế và chính trị; đời sống cá nhân – đứng tách ra khỏi quần chúng – được xem là có hại cho sự nghiệp chung, là phản cách mạng. Mỗi cá nhân là một phần của khối quần chúng thống nhất, phải phục tùng kỉ luật chung. Dưới những điều kiện như thế, người trí thức trước hết phải là một đảng viên, một “kĩ sư tâm hồn” của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, kẻ cùng gánh trách nhiệm, nhưng đồng thời cũng cùng chia chác quyền lực. Bằng việc đàn áp phong trào Nhân văn – Giai phẩm, Đảng đã củng cố được quyền lực độc tôn của mình, nhưng tính chính danh và uy tín đạo đức của Đảng thì bị tổn thương nặng nề. Cũng giống như Trung Quốc, từ cuối những năm 1980, Việt Nam đã nỗ lực thông qua cải cách và phát triển kinh tế để tìm ra những hình thức chính danh mới thay thế cho khoảng trống về tư tưởng. Tuy nhiên đến nay, mỗi khi đề cập tới Nhân văn – Giai phẩm, Đảng vẫn phản ứng một cách sợ hãi, lập cập và sắt máu. Bởi vì, dù Đảng vẫn chính thức bám giữ quan điểm cho rằng các thành viên Nhân văn – Giai phẩm là những kẻ phản động và gián điệp, có mục đích lật đổ chính quyền cách mạng, thì sự thật vẫn là: 50 năm trước, những người này đã không hề muốn có một cuộc lật đổ, mà họ chỉ muốn mở rộng dân chủ và quyền công dân trong khuôn khổ của hệ thống chính trị. Và những đòi hỏi về việc quyền lực phải được kiểm soát này đến nay vẫn bị từ chối với dân chúng,[250] cho dù kinh tế tăng trưởng nhanh, mức sống được nâng cao và đi cùng đó là một xã hội hàng hóa đang lan rộng. Bởi vậy, không có gì ngạc nhiên khi Đảng và Chính phủ vẫn sợ hãi việc gợi lại ký ức Nhân văn – Giai phẩm đến thế, như họ sợ một bóng ma có thể đe dọa tới sự tồn vong của mình.
Cũng giống như trong đạo Hồi, người ta chỉ được phép tạo ra hình ảnh để phụng sự quyền năng sáng tạo duy nhất của Allah, bằng cách nhân rộng mãi một khuôn mẫu đã hoàn thiện, và chỉ được phép làm thế – chứ không được phép, chẳng hạn, tạo ra những hình ảnh do con người hình dung, quan sát và cảm nhận – nghĩa là chỉ luôn tụng niệm cái đã được cho là chân lý cố định, chứ không phải cái độc đáo cá thể và sự vận động có tính lịch sử của những con người cá thế, của một con chó, một cái cây, tình yêu và nỗi đau của nó; cũng vậy, người nghệ sĩ trong chế độ toàn trị chỉ được miêu tả những con người tham dự vào cuộc đấu tranh và xây dựng cái hệ thống lý tưởng tương lai (chẳng hạn như chủ nghĩa xã hội), và chỉ được miêu tả những con người đó trong cái chức năng duy nhất đó. Người họa sĩ trung thành với truyền thống Hồi giáo ca tụng công trình sáng tạo hoàn mỹ và muôn đời không đổi của Allah, nhưng anh ta không bao giờ được khuyến khích bắt chước Allah để mô phỏng cái thế giới hoàn mỹ này, bởi đó sẽ là sự xúc phạm Đấng sáng tạo. Ngược lại, người nghệ sĩ trên mặt trận xã hội chủ nghĩa có nhiệm vụ miêu tả sự tranh đấu và những thành tích – nghĩa là những sự việc hoàn toàn có tính vận động – nhưng cũng vậy, những nhân vật của anh ta cũng như kết quả của cuộc tranh đấu thì đã được Đảng ta, Đảng thần thánh, Đảng trăm tay nghìn mắt, Đảng không thể thiếu, lên khuôn cố định trước cả rồi.[251]
 
Huy Cận (người thứ nhất từ phải) và Lê Đạt (người thứ hai từ phải)
trong một hội thảo tại Hà Nội ngày 23.10.2000
Tháng 3 năm 2007, rốt cuộc bốn thành viên của Nhân văn – Giai phẩm gồm Hoàng Cầm (khi đó đã 85 tuổi), Lê Đạt (78 tuổi), Phùng Quán (mất năm 1995) và Trần Dần (mất năm 1997), cũng được Bộ Văn hóa Việt Nam trao Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Trở lại Mục Lục

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire