mercredi 11 mai 2011

P03 - Heinz Schütte Nhân Văn-Giai Phẩm - Năm mươi năm sau

6. Những mâu thuẫn cơ bản của năm 1956
Càng ngày càng rõ rằng, những cải cách mà người ta chờ đợi sẽ không được thông qua, bởi vì, như Nguyễn Đình Thi đã giải thích trong Báo cáo đọc tại Hội nghị Văn nghệ toàn quốc lần thứ 2, năm 1957: “Nền văn nghệ dân tộc và nhân dân của chúng ta được sự lãnh đạo của Đảng tiền phong của giai cấp công nhân… Đảng lãnh đạo đã đem tới cho văn nghệ Việt Nam ánh sáng tư tưởng Mác-Lênin, soi rõ con đường phấn đấu để đổi mới xã hội, xây dựng con người mới Việt Nam. Đảng đã đoàn kết tập hợp mọi lực lượng văn nghệ Việt Nam thành một mặt trận ngày càng lớn mạnh. Đảng đã giới thiệu cho các nhà văn nghệ phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, là phương pháp sáng tác tốt nhất.”[104] Như vậy, những đề xuất của Trần Dần đã đi ngược lại với đường lối của Đảng và thách thức tính độc quyền của nó.
Mục tiêu cao nhất của Đảng và chính phủ vẫn là sự thống nhất đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng (cuộc cách mạng này còn kéo dài tới năm 1975), và văn hóa cũng phải hoàn toàn phục vụ mục tiêu này. Sự lệch lạc về chính trị và lý tưởng sẽ tạo cơ hội cho kẻ thù lợi dụng. Hội nghị Trung ương 8 của Đảng Lao động Việt Nam năm 1955 đã thảo luận về “công tác chống gián điệp, chống phản bội; tăng cường công tác phòng gian, bảo mật. Và để phát triển cuộc đấu tranh này tại các đô thị, mọi người dân đều phải đăng kí hộ tịch. Các khóa học chỉnh đốn về chế độ bảo mật liên tục được tổ chức tại các xí nghiệp và các cơ quan Đảng, chính quyền, quân đội và dân sự.”[105] Sự tự do đi lại của dân chúng bị kiểm soát bởi chính sách hộ khẩu, và mỗi người đều bị quản lý bởi một quyển sổ lý lịch trong đó ghi rõ chi tiết tiểu sử bản thân và giai cấp của người đó.[106]
Tuy nhiên các văn nghệ sĩ và trí thức quân đội đã không chịu nhún, mà, cùng với các đồng nghiệp trong khối dân sự, họ đã cho xuất bản tạp chí Giai phẩm mùa Xuân tháng 3.1956. Giờ đây, những chỉ trích nhắm vào họ không chỉ dừng trong phạm vi tương đối an toàn của quân đội nữa, mà lan sang khối Đảng và khối dân sự, địa hạt quản lý của Tố Hữu (1920-2003), người được “thừa nhận là nhà thơ Việt Nam lớn nhất của thời đại”.[107] Tố Hữu là ủy viên Bộ Chính trị, nắm mảng tuyên giáo (tuyên truyền và giáo dục), một nhà thơ tiêu biểu cho thơ chính thống, một giáo hoàng văn nghệ, người đặt ra các chính sách, người canh gác việc thực hiện các chủ trương (thường do ông tự đặt ra), và như vậy, ông là một trong những người có quyền lực lớn nhất đất nước – một nhà tư tưởng sắt đá. Tố Hữu được xem là người thô bạo và không khoan nhượng về tư tưởng. Ở Hà Nội loan truyền câu chuyện, ông đã gọi các đồng nghiệp từng sát cánh bên ông trong kháng chiến lên và quạt: “Các anh viết cho ai? Viết cho tương lai hay viết cho công nông cách mạng? Sao các anh không ăn cho tương lai luôn đi!” Có thể thấy rằng, Tố Hữu, trong tư cách nhà thơ, đã cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm như thế nào khi Trần Dần và Lê Đạt đầu năm 1955 đã phê phán gay gắt tập thơ Việt Bắc của ông, tập thơ được trao giải Nhất của Hội Văn học và Nghệ thuật Việt Nam năm 1954-55.[108]
Sau năm 1954, Đảng  đã đi một bước quyết định trong việc kiểm soát lĩnh vực tư tưởng và qua đó khẳng định quyền lực độc tôn của mình. Trong khi 10 năm trước, Việt Minh đã nỗ lực kiểm soát lĩnh vực chữ viết và tri thức bằng chiến dịch xóa nạn mù chữ, thì nay Đảng đã dấn thêm bước nữa bằng cách kiểm soát trọn vẹn tất các các khâu trong hoạt động chữ viết và hình ảnh.[109]
Tuy nhiên, Ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã phải đón nhận những bất ổn do các vấn đề từ bên trong cũng như bên ngoài. Ở nông thôn, các vụ đấu tố trong cải cách ruộng đất, và kéo theo là các cuộc thanh lọc những “phần tử phản động” ra khỏi hàng ngũ Đảng và các tổ chức quần chúng, đã tạo ra sự đối lập và nổi loạn. Tình hình chính trị khắp nơi đều “căng thẳng”,[110] và ngay cả những gia đình đã tham gia kháng chiến cũng bị đấu tố không thương tiếc. Nạn đói năm ấy lại khiến cho tình hình xã hội càng thêm xấu.[111] Đã không  hề có tăng trưởng kinh tế, cũng như không hề có những tiến triển tích cực về chính trị và đạo đức xã hội từ cuộc cải cách ruộng đất, như Bộ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm kể với Đại sứ CHDC Đức tháng 10.1956.[112] Nhà thơ Phùng Quán miêu tả những gì ông chứng kiến tại nông thôn Bắc Bộ hồi đó:
Tôi đã đi qua
Nhiều xóm làng vùng Kiến An Hồng Quảng
Nước biển dâng lên ướp muối các cánh đồng
Hai mùa lúa không có một bông.
Phân người toàn vỏ khoai tím đỏ.

Tôi đã gặp
Những đứa em còm cõi
Lên năm lên sáu tuổi đầu.
Cơm thòm thèm độn cám với rau…
[113]
Ngày 29.10.1956, nhân danh Đảng và Chính phủ, đại tướng Võ Nguyên Giáp, người hùng của Điện Biên Phủ, đã tự phê bình công khai. Tháng 11 bắt đầu chiến dịch sửa sai. Chủ tịch Hồ Chí Minh thừa nhận những sai lầm trong cải cách ruộng đất, mặc dù về tổng thể ông vẫn đánh giá cải cách ruộng đất là tích cực.[114] Ông đã khóc trước mặt mọi người, và điều đó đến nay vẫn mang lại cảm giác về sự chân thành và chăm lo cho dân chúng của vị cha già.[115] Nhưng mặc dù đã có những cử chỉ hòa giải như vậy, tình hình vẫn tiếp tục căng, đến nỗi tháng 11.1956 – cùng thời điểm với “những sự kiện Hungary” – người ta đã phải huy động quân đội để đàn áp đẫm máu những cuộc nổi loạn của nông dân ở một loạt các làng tại Nghệ An, quê hương Hồ Chí Minh. Tình thế nguy ngập được đánh dấu bằng cuộc viếng thăm của Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tại Hà Nội ngày 18.11.1956.[116] Trước đó các văn nghệ sĩ và những thành viên khác của Hội Trí thức đã được phân công tới nông thôn để nắm tình hình cải cách ruộng đất. Tuy nhiên những kinh nghiệm ở nông thôn chỉ khiến họ thêm nghi ngờ vào hệ thống chính trị và hâm nóng không khí phản kháng ở đô thị.[117] Đường lối không tưởng của Mao Trạch Đông[118] thống trị miền Bắc, như Georges Boudarel chỉ rõ, đã dẫn tới các cuộc đấu tố trong cải cách ruộng đất và gây căm phẫn trong dân chúng, thách thức sự sống còn của chế độ. Điều này dẫn tới sự phân hóa trong hàng ngũ lãnh đạo thành hai phe: phe đa số theo đường lối giáo điều của Mao và phe thiểu số nghiêng về đường lối dân tộc thực dụng thân Moskva – phe của những người bị gọi là xét lại.
Năm 1956 là một năm nguy khốn của thế giới cộng sản. Ngay sau cái chết của Stalin năm 1953 đã bắt đầu hình thành một quá trình nới lỏng và đặt lại câu hỏi về chế độ toàn trị. Nhân Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ 20 tại Moskva, ngày 24.2.1956, trong một báo cáo mật, Tổng Bí thư Khrushchev đã công bố những tội ác của Stalin, và qua đó đánh đổ thần tượng được coi là bất khả xâm phạm cho tới khi đó. Cuối năm 1956, sau bài phát biểu của Mao về các mâu thuẫn, Bắc Kinh kêu gọi các trí thức của đất nước – những người có vẻ thực sự tin rằng những mâu thuẫn cơ bản đã được giải quyết, còn những mâu thuẫn khác, không cơ bản, thì có thể bàn luận công khai – phê phán thói quan liêu và những điểm yếu khác của chế độ. Điều này dẫn tới phong trào trăm hoa đua nở ngắn ngủi kiểu Trung Quốc dưới khẩu hiệu “Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh”[119] (Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng). Cuối tháng 6 xảy ra cuộc nổi dậy ở Poznan (Ba Lan) và đến tháng 10 thì xảy ra cuộc phản kháng ở Hungary, cuộc phản kháng sau đó đã bị dập tắt bởi quân đội của Khối Hiệp ước Warszawa.
Tất cả những sự kiện kể trên đã không phải không gây ra tiếng động nào ở Hà Nội. Đảng và Chính phủ đã tỏ ra rất lo lắng. Tháng 9.1956, trong “Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 10 (mở rộng) về việc sửa sai trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức Đảng, quần chúng”, Đảng đưa ra nhận định: “Ảnh hưởng bất lợi từ nông thôn đang lan ra thành thị và tấn công vào tất cả các giai cấp và tầng lớp nhân dân, miền Bắc cũng như miền Nam. Tình hình đòi hỏi chúng ta phải sửa chữa sai lầm dứt khoát, khẩn trương và khéo léo”.[120] Trong một cuộc gặp trực tiếp với Đại sứ CHDC Đức ngày 7.1.1957, Thủ tướng Phạm Văn Đồng giải thích: “Cách đây khoảng 3-4 tháng, … tình hình ở nông thôn rất nguy ngập, nguy hơn mức người ta dám thừa nhận”.[121] Từ khi hòa bình lập lại tháng 7.1954, đời sống vật chất của dân chúng đã không hề được cải thiện. Theo báo cáo của Đại sứ CHDC Đức, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói tiếp: “Sự bất mãn này được biểu hiện trong các cuộc tấn công về tư tưởng nhắm vào Chính quyền Nhân dân. Ở đây Chính quyền phân biệt rõ hai loại bất mãn: loại kẻ thù chống chế độ và loại lầm đường lạc lối. Đối với loại kẻ thù, Chính quyền luôn sẵn sàng dùng mọi phương tiện để tiêu diệt.”[122]
Nhưng phải làm gì với những trí thức bất mãn, đặc biệt là những trí thức văn nghệ sĩ trong nhóm Nhân văn-Giai phẩm? Nguyễn Đình Thi đã giải thích với ông Đại sứ CHDC Đức tại Hà Nội ngày 20.10.1956: “Chính nội bộ Bộ Chính trị Đảng Lao động vẫn còn chưa có quan điểm thống nhất về việc này, mặc dù đại diện Bộ Chính trị đã có vài cuộc trao đổi với nhóm Nhân văn rồi.”[123] Sự ngập ngừng này đã cho phép những người nổi loạn một khoảng thời gian đàm phán nhất định, tuy nhiên điều đó đã nhanh chóng chấm dứt với cuộc đàn áp ở Hungary. Tháng 11.1957, trong một cuộc họp của các đảng cộng sản cầm quyền tại Moskva, người ta đã đưa ra quyết định sẽ dập tắt tất cả các phần tử dao động. Một thời kỳ đóng băng mới lại hình thành;[124] Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô và cuộc cải cách ruộng đất đã gieo sự hoài nghi vào các trí thức miền Bắc Việt Nam.
Quyền lãnh đạo của Đảng chỉ còn có thể duy trì bằng trấn áp. Nhưng giờ đây chính Đại hội 20 đã tự xác nhận những mầm mống hoài nghi vào chế độ. Ảnh hưởng của nó với Việt Nam, nhất là với giới trí thức, hoàn toàn không thể coi nhẹ. Thực ra, thoạt tiên đã không có ai đọc được bản báo cáo của Khrushchev, song những tin đồn – rò rỉ đây đó từ các nguồn sách báo tiếng Pháp hiếm hoi – khiến người ta nhận thức rằng điều mà họ hằng tin tưởng bấy nay đã không thể còn đúng nữa.[125] Và khi sự nghi ngờ đã được phép hiện diện ở Moskva thì hẳn nó cũng phải được phép ở Việt Nam. Bởi vậy ta có thể hiểu rằng, chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa dưới ảnh hưởng của Mao ở một số nhà các mạng trẻ tuổi, vốn đã bị nhạt đi phần nào do việc đọc các tiểu thuyết Xô-viết đầu những năm 50,[126] qua Đại hội 20 ở Moskva, đã rẽ sang một nhánh khác, với những giải pháp khác về một xã hội xã hội chủ nghĩa-cộng sản chủ nghĩa.
Những quá trình cởi bỏ ảo tưởng này cũng tạo ra sự khích lệ mới. Bởi lẽ đối với nhiều người Việt Nam thì những sự thật được phơi bày về Stalin và hệ thống Xô-viết từ trong chính nội bộ của hệ thống là bằng chứng về khả năng đổi mới của chủ nghĩa cộng sản, với Liên Xô cũng như với Việt Nam. “Kinh nghiệm Liên Xô luôn là ánh sáng tự do đối với chúng tôi”, nhà sử học Đào Hùng đã nói như vậy.[127] Và Đào Hùng so sánh kinh nghiệm Liên Xô với kinh nghiệm Trung Quốc: Người ta không bao giờ chờ đợi sự giải phóng từ Trung Quốc, mà luôn luôn là sự đàn áp và ngu dân –  dĩ nhiên đây cũng là một cách nói có phần biện hộ khi nhìn lại. Triết gia Trần Đức Thảo cũng đã viện dẫn tới phong trào tự do dân chủ do Đại hội 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô phát động, và ông cho rằng những thắng lợi của phong trào này đòi hỏi Đảng Lao động Việt Nam cũng phải mở rộng tự do dân chủ. Trần Đức Thảo giải thích, từ sau hòa bình lập lại, những phê phán lãnh đạo của công nhân và trí thức là hoàn toàn đúng: người ta không phát huy được khả năng của mình do tệ quan liêu, bè phái và sùng bái cá nhân. Chẳng hạn trong lĩnh vực văn hóa, người trí thức cần tự do như khí trời để thở, và Đại hội 20 đã bóc trần những kết quả tai hại của tác phong lãnh đạo vi phạm hình thức tự do.[128] Đại hội 20 rút cuộc đã củng cố niềm tin cho các nhà ly khai, khiến họ không nhượng bộ trong những đòi hỏi của mình. Vài năm sau, ngày 23.8.1963, Tham tán Đại sứ CHDC Đức Klaus Matzke đã có buổi trao đổi với người đồng chí Võ Kung Ky, Cục trưởng Cục Hợp tác Quốc tế, Bộ Văn hóa, và (Xuân?) Thủy. Ngài tham tán được thông báo rằng: “Văn nghệ Việt Nam vẫn còn một số ảnh hưởng tiểu tư sản”. Matzke hỏi, phải chăng “những quan điểm độc hại đó có nguồn gốc từ Thái Lan hay miền Nam Việt Nam”? Và ông được trả lời: “Nguồn gốc những quan điểm độc hại này không phải là Thái Lan hay miền Nam, mà chính là Liên Xô”.[129] Đây quả là những mâu thuẫn cơ bản.
Trở lại Mục Lục

7. Giai phẩm

Điều gì đã xảy ra trong giới văn nghệ sĩ và trí thức Hà Nội thời gian này? Như tôi đã nói, tạp chí Giai phẩm mùa Xuân do Hoàng Cầm chủ trương đã được xuất bản nhân dịp Tết nguyên đán tháng 3 năm 1956. Trong số báo này, các tác giả đã không viện dẫn đến Liên Xô hay Trung Quốc, mà họ chọn Trường Chinh, nhà tư tưởng hàng đầu của Đảng, bằng việc trích dẫn báo cáo “Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam” năm 1948, trong đó Trường Chinh viết: “Không có phê bình, không có luận chiến, phong trào văn nghệ nước ta êm đềm quá, trầm mặc quá… Phê bình với thái độ phụ trách, với ý định chân thành, với lời lẽ khiêm tốn thì chẳng những không có hại mà còn giúp cho nhau thêm tiến bộ và hiểu nhau thêm. Xuất phát từ đoàn kết mà phê bình để tăng cường đoàn kết, như thế mới thật là đoàn kết chân chính.” Điều này thì giới văn nghệ đồng ý. Nhưng đây mới là điều Trường Chinh thực sự muốn nói: “Phê bình chúng tôi đề nghị đây là phê bình đúng nguyên tắc, phê bình trong kỉ luật dân chủ, không phải ‘tự do phê bình’. Có thể có những kẻ mang tâm mượn phê bình để gieo rắc sự chia rẽ, nghi ngờ trong hàng ngũ dân tộc, để cung cấp tài liệu cho địch hại ta. Những kẻ đó không phải là phê bình mà là quấy rối, không phải thật tâm cầu tiến bộ mà là khiêu khích. Địa vị của chúng không ở trên đàn ngôn luận của một nước dân chủ, mà phải ở trong nhà tù của chính quyền nhân dân.[130]Định nghĩa của Trường Chinh về phê bình” như vậy là hết sức rõ ràng, và cũng rõ ràng như vậy là số phận của tất cả những ai không chấp nhận định nghĩa đó.

Các văn nghệ sĩ của Giai phẩm mùa Xuân hồi đó đều là thành viên của một cơ quan hay tổ chức chính thống, như Phòng Văn nghệ Quân đội, Hội Văn học Nghệ thuật hay ban biên tập của một tờ báo nào đó. Có thể nói rằng, hầu hết họ đều đã tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp, trừ vài người tập kết ra Bắc theo Hiệp định Genève. Các tác giả của Giai phẩm đều khao khát chống công thức, tìm cái mới, nói tiếng nói chân thực của văn nghệ sĩ.[131] Đặc biệt có hai bài thơ trong tập này gây phẫn nộ cho giới lãnh đạo văn nghệ. Một là bài “Mới” của Lê Đạt với những câu như: 
Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Y như một chiếc bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lạ[132]
Trong Giai phẩm mùa Thu 1956, tập II, nhà giáo, nhà Hán học, nhà báo kiêm nhà hoạt động chính trị Phan Khôi (1887-1960,[133] trong bài xã luận “Ông bình vôi” đã giải thích bài thơ của Lê Đạt, đại ý, cái bình vôi thường dùng để ăn trầu, dùng lâu ngày thì trong lòng nó sẽ đầy cặn, còn miệng nó sẽ tum húm lại. “Tóm lại, cái bình vôi, vì nó sống lâu ngày,… cũng như pho tượng đất hoặc gỗ không nói năng, không nhúc nhích, thì người ta tôn thờ sùng bái mà gọi bằng ông.” Và điều đó có nghĩa là Lê Đạt đã cả gan tấn công vào các bậc tiền bối, các đồng chí đàn anh trong hàng ngũ lãnh đạo Đảng. Nhà thơ Xuân Diệu, người được “cách mạng tái sinh”, đã quật lại Lê Đạt như sau: “Được sự giáo dục của Đảng, những con người cũ trong chúng ta càng ngày càng bé lại thật, cố gắng thu hẹp cái cá nhân chủ nghĩa của mình càng nhỏ càng tốt, để cho con người mới, con người tập thể càng lớn mạnh lên: đó là điều đáng vui mừng của chúng ta![134] Khi Phan Khôi phê bình tập thơ được trao giải văn học năm 1954-55, tập Ngôi sao của Xuân Diệu, là có những câu “bí hiểm không hiểu nghĩa được”, thì bị một người trong Ban Tuyên giáo cãi lại: thế thì bao lâu nay Đảng giáo dục Xuân Diệu không có hiệu quả gì sao? Và Phan Khôi đã bật ra câu này: “Đảng giáo dục Xuân Diệu làm cách mạng, chứ có giáo dục Xuân Diệu làm thơ đâu…”.[135] Đây chính là điểm chia rẽ, dẫn tới một trường hỗn loạn các cuộc cãi vã với những quan điểm không còn dung hòa được với nhau.

Bài thơ thứ hai gây phẫn nộ là bài “Nhất định thắng” của Trần Dần, một bài thơ dài hơn 500 câu chịu ảnh hưởng phong cách của Maiakovsky. Giới lãnh đạo văn nghệ thấy đây là một tác phẩm “phản động một cách tinh vi”.[136] Bài thơ kể về cuộc sống và tình yêu của một cặp vợ chồng trẻ trong cái mùa đông mưa tầm tã ở Hà Nội năm đầu tiên sau chiến tranh, về sự chật trội, khốn khó của đời sống vật chất, về tương lai bất định và về cuộc di cư của hàng vạn người vào Nam để chạy chốn cái nghèo – những chủ đề cấm kị của một chế độ mới đang trên đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. 
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
Không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ.
Những hình ảnh đau xót được thay thế bằng đòi hỏi: 
Đất nước khó khăn này
Sao không thấm được vào Thơ?
….
Tôi ước ao tất cả mọi người ta
Đòi thống nhất phải đòi từ việc nhỏ
- từ cái ăn

cái ngủ
chuyện riêng tư
- từ suy nghĩ
nựng con
và tán vợ…
Trần Dần đã không khắc họa những hình ảnh công nông binh anh hùng như bộ máy tuyên truyền đòi hỏi, bởi vì: “Những câu hỏi đi giữa đời chỏng ngỏng/ Ôi! Xưa nay người vẫn thiếu tin Người/ Người vẫn kinh hoàng trước Tương Lai”.[137] Trần Dần nói về quân đội anh hùng, về cuộc đấu tranh thống nhất, về niềm tin vào chính nghĩa của miền Bắc, nhưng: “… tôi cúi mặt trước đèn?/ Gian nhà vắng chuột đêm nó rúc./ Bao nhiêu lo lắng hiện hình ra./ Hừ! Chúng đã biến thành tảng đá// chặn đường ta! Em ơi thế ra/ Người tin tưởng nhất như anh// vẫn có những phút giây ngờ vực.” Hệ quả là, trong một cuộc họp của Ban Thường vụ Hội Văn học và Nghệ thuật tháng 2.1956, bài thơ đã bị đem ra phê phán và báo Văn học của Hội được lệnh phải vạch trần tính chất phản động của bài thơ cũng như con người Trần Dần. Trước đó, cuối tháng 1.1956, tạp chí Giai phẩm đã bị tịch thu.[138]

Ở Hà Nội tôi được nghe kể, hồi đó Trần Dần đang được cử đi tham quan cải cách ruộng đất ở nông thôn nên không hay biết về việc in bài thơ. Vào một ngày tháng 2 năm 1956, Trần Dần cùng Tử Phác bị bắt và đưa lên một chiếc xe nhà binh, vì “vi phạm kỉ luật quân đội” (ra khỏi trại ban đêm không có giấy phép).[139] Hồi đó Trần Dần sống cùng một cô gái tiểu tư sản theo đạo Thiên chúa (vì vậy cô gái bị cáo buộc là gián điệp) tại ngôi nhà nhỏ ở phố Sinh Từ,[140] và điều này bị xem như một sự phản bội giai cấp,[141] nhất là với một người vừa là đảng viên vừa là quân nhân như Trần Dần. Để thoát khỏi hầm giam nằm sâu dưới lòng đất, nhà thơ nhanh trí đã giả vờ tự tử bằng cách cứa dao lam vào cổ, khiến giới lãnh đạo Đảng và quân đội bị một phen bối rối. Trong thời gian bị cấm trại, Trần Dần đã phải viết kiểm thảo. Các cán bộ lãnh đạo tư tưởng-văn hóa muốn chỉ ra những nhận thức lệch lạc của Trần Dần và kéo ông về khối những người tin tưởng. Một mặt giới lãnh đạo không muốn mất thể diện (bởi nếu không thì chẳng khác gì họ chấp nhận sự nghi ngờ vào quyền lực của họ), mặt khác Trần Dần là một công cụ tuyên truyền đáng giá cho công cuộc giải phóng miền Nam và củng cố miền Bắc.

Nguyễn Đình Thi (cũng như Huy Cận) là người không bao giờ muốn từ bỏ niềm tin vào sứ mệnh của mình trong việc xây dựng một xã hội mới với những con người mới. Là một nhà thơ gốc tiểu sư sản, Nguyễn Đình Thi đã tìm thấy địa vị của mình ở chủ nghĩa xã hội và ông được Đảng – lương tâm của thời đại – ủng hộ về tinh thần. Suốt đời mình, Nguyễn Đình Thi luôn là người bạn trung thành của quyền lực. Ông không vòng vo, mà đi thẳng vào vấn đề: “Văn nghệ phải xây dựng được ý thức mới, tâm hồn mới cho nhân dân ta, theo phương hướng chủ nghĩa yêu nước và lý tưởng xã hội chủ nghĩa”.[142] Văn nghệ sĩ dù ở vị trí nào cũng đều phải là cánh tay nối dài của Đảng, là những người góp phần xây dựng mục tiêu thần thánh của Đảng và chịu trách nhiệm trước Đảng. Song điều đó cũng có nghĩa rằng Đảng cũng chờ đợi sự tham dự của văn nghệ sĩ vào dự án của mình, vì như chúng ta đã thấy, văn nghệ sĩ được Đảng xem như những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội (bên cạnh các mặt trận kinh tế, chính trị và quân sự). Chính điều đó đã cho phép các văn nghệ sĩ một không gian nhất định để đàm phán. Và lúc này họ vẫn quyết tâm tận dụng triệt để không gian này.

Giai phẩm là cuộc tấn công công khai đầu tiên của giới trí thức văn nghệ sĩ vào đường lối lãnh đạo công thức cứng nhắc của Đảng, và Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô đã tiếp cho họ thêm sức mạnh. Một ngày tháng 3 năm 2002, Nguyễn Đình Thi đã kể với tôi rằng, thời gian ngắn sau khi trở về từ Moskva, Trường Chinh có nói với ông thế này: “Mấy người làm Giai phẩm mùa Xuân thực ra đều là anh em kháng chiến mình cả. Cậu thấy ở Hà Nội này, cứ vào mấy hiệu sách mà xem, còn đầy sách của đế quốc đấy, đầy sách chống cộng đấy, vậy mà người ta có làm gì đâu. Lại đi thu cái tạp chí của anh em quân ta. Phải thay đổi gấp thôi.”[143] Và nhà văn Nguyễn Tuân, nguyên Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật, thời gian này cũng công khai tự phê bình: “Anh em văn nghệ không muốn quay lưng lại Đảng, họ thừa nhận Đảng đã cho họ hướng đi, họ chỉ mong có tự do trong nghệ thuật. Câu hỏi quan yếu nhất lúc này là liệu văn nghệ có được phép phát huy tất cả khả năng của mình hay không?”[144]  Việc câu hỏi của Nguyễn Tuân sẽ nhận được câu trả lời tích cực, và phê bình lãnh đạo văn nghệ là được phép, là điều mà phần đông văn nghệ sĩ đã không còn nghi ngờ nữa, bởi vì “sau khi những sai lầm đẫm máu của Stalin bị vạch trần, sau những bi kịch trong cải cách ruộng đất và trong các cuộc thanh trừng của Đảng, tình hình đã thay đổi nhanh chóng”.[145] Giai phẩm ra liền hai số, số mùa Thu tập 1 và số mùa Thu tập 2. Tiếp đó, Giai phẩm mùa Xuân cũng được tái bản. Theo đề nghị của Nguyễn Đình Thi, tất cả văn nghệ sĩ đều được triệu tập tham gia lớp học 18 ngày do Hội Văn nghệ tổ chức từ 1 đến 18.8.1956 để học tập các quan điểm của Marx về dân chủ trong văn nghệ và tiến hành việc tự phê bình.[146] Lớp học này đánh dấu một bước ngoặt. Các bên tranh luận gay gắt. Đường lối lãnh đạo của Đảng và quan điểm của văn nghệ sĩ đối nghịch với nhau chan chát. Đối với các cán bộ văn nghệ thì thơ ca không phải là việc riêng tư mà là việc chung; thơ ca cần có tính phục vụ thay vì chỉ biểu lộ cảm xúc.[147] Trong một bài đăng trên Nhân văn số 3, họa sĩ Sĩ Ngọc viết rằng, những người viết Nhân văn-Giai phẩm bị gán cho danh hiệu “bất mãn” với cuộc sống khó khăn ở miền Bắc, và từ bất mãn đã nảy sinh phản ứng giai cấp. Đây là một sự kết án hết sức nặng nề, bởi những kẻ “bất mãn” thường được hiểu là chống cách mạng. Sĩ Ngọc lật ngược lại, bằng cách quy kết giới lãnh đạo là “những đứa con của phong kiến, đế quốc”, những kẻ quen dùng những luận điệu cũ là di chứng của thời thiếu dân chủ trước đây để kết tội những người dám phê bình mình là bất mãn. Sĩ Ngọc viết rằng, nếu những người Nhân văn sai thì quần chúng sẽ có đủ sáng suốt để nhận định. Trong khi giới lãnh đạo lại tìm cách bịt miệng những người phê bình mình, như thế là khinh thường quần chúng, hoặc sợ quần chúng sáng suốt mà biết sự thật. Vì vậy lúc này, lãnh đạo muốn giữ uy tín thì cần phải tự phê bình thành khẩn. Sĩ Ngọc cho rằng những sai lầm trong cải cách ruộng đất và những sai lầm trong chính sách văn nghệ và trí thức là rất nặng nề, và tất nhiên là giới văn nghệ sĩ bất mãn với những sai lầm này, những sai lầm làm tổn hại và kìm hãm văn hóa văn nghệ. Ông viết: “Bất mãn với những cái sai lầm là chính đáng. Chỉ có kẻ nào thỏa mãn với cái sai kẻ ấy mới là kẻ có tội.[148] Sĩ Ngọc chống lại các cán bộ văn nghệ chỉ biết quan tâm lợi ích của mình.

Hội nghị Trung ương lần thứ 10 của Đảng Lao động Việt Nam đã tạo ra một “không khí dân chủ”,[149] vì vậy trong lớp học 18 ngày đáng nhớ đó, công tác trao giải thưởng văn học 1954-55, đặc biệt tập thơ Ngôi sao được trao giải Nhì của Xuân Diệu, bị phê phán gay gắt. Tờ Văn nghệ của Hội Văn học và Nghệ thuật đã mở ra cuộc tranh luận bằng những bài tự phê bình của các lãnh đạo văn nghệ.[150] Trong khoảng thời gian từ tháng 8.1956 tới đầu năm 1957 đã xuất hiện một loạt các tờ báo đầy tinh thần hứng khởi như Đất mới của Hội Sinh viên, Trăm hoa của Nguyễn Bính,[151] và những tờ khác như Nói thật, Tập san phê bình… Ngay cả những tờ báo chính thống như Nhân dân của Đảng hay Cứu quốc của Mặt trận Tổ quốc cũng không cưỡng được làn sóng tự do bày tỏ ý kiến và tự do thảo luận về các chủ đề như chính sách văn hóa, vai trò của trí thức trong chủ nghĩa xã hội và tự do dân chủ. Thậm chí những sinh viên và học sinh nôn nóng còn muốn xuống đường biểu tình, nhưng do một dịch cúm[152] bùng phát, các trường phổ thông và đại học ở Hà Nội đã bị đóng cửa ngày 2.5.1957.

Bài xã luận “Phê bình lãnh đạo văn nghệ” của Phan Khôi đăng trên Giai phẩm mùa Thu tháng 9.1956[153] phản ánh không khí ngột ngạt của đời sống trí thức văn nghệ sĩ hồi đó và phản ứng của họ với Đảng và các cơ quan lãnh đạo văn nghệ. Phan Khôi viết trên cương vị một nguời đã tham gia kháng chiến, người không nghi ngờ gì vào tính chính đáng của chế độ sau cuộc đấu tranh dài gian khổ giành độc lập. Đối với Phan Khôi thì chế độ miền Bắc đương nhiên là chế độ tốt. Tuy nhiên ông muốn xóa bỏ lối lãnh đạo mệnh lệnh trong văn hóa, kìm hãm tư tưởng, những lề lối hình thành trong những năm cuối của cuộc kháng chiến. Nhà văn lão thành này đòi hỏi phải có phê bình – không chỉ phê bình nội bộ – mà phê bình công khai. Ông viết: “Tôi muốn nói sự thực. Nhưng có người bảo rằng ‘có những cái sự thực không nên nói’. Tôi không tin. Đó là ở dưới chế độ nào kia, chứ ở dưới chế độ của chúng ta, đã lấy phê bình, tự phê bình làm võ khí, thì còn có cái sự thực nào là cái sự thực không nên nói?”. Về việc phê bình có thể bị địch xuyên tạc, ông nói: “Cái thời kì ‘đóng cửa dạy nhau’ đã qua rồi, ngày nay chính là ngày có mâu thuẫn gì giữa nội bộ cần phải giải quyết trước mặt quần chúng nhân dân, không nhờ ánh sáng của quần chúng nhân dân soi rõ cho, thì không thể giải quyết nổi… Còn như sợ ‘bên địch xuyên tạc’ thì chỉ là cái cớ mượn để mà giấu kín im ỉm. Bên địch hà tất đợi đến có cái gì mới xuyên tạc?… Đã là bên địch thì nó cứ dựng đứng chuyện lên…”.[154] Ông nhấn mạnh rằng không ai đòi hỏi tự do bừa bãi cả, mà nguời ta chỉ yêu cầu được tự do trong nghệ thuật. Bởi vì, “phần nghệ thuật nầy là phần riêng của văn nghệ, chính trị không bao biện được…”.[155]

Theo Phan Khôi, chính đường lối văn nghệ của miền Bắc sau khi hòa bình lập lại là lý do dẫn tới sự ra đời của Giai phẩm, mà trong đó các tác giả thể hiện sự bất bình với lãnh đạo. Ông đề cập đến trường hợp Trần Dần bị “hỏi tội” tại trụ sở Hội Văn nghệ vì trong bài thơ “Nhất định thắng” đã dám sử dụng chữ “Người” viết hoa, chữ lâu nay vốn chỉ để xưng Hồ Chủ tịch. “Tôi ngồi nghe mà tưởng như mình ở trong chiêm bao”, Phan Khôi viết, “chiêm bao thấy mình đứng ở một sân rồng nọ, ông Lê Mỗ tố cáo ông Nguyễn Mỗ trước ngai vàng, rằng trong phép viết, chỉ có chữ nào thuộc về hoàng thượng mới phải đài, thế mà tên Nguyễn Mỗ viết thư cho bạn, dám đài chữ không phải thuộc về hoàng thượng. Nhưng may cho tôi, tôi tỉnh ngay ra là mình ngồi trong phòng họp Hội Văn nghệ”.[156]  


8. Nhân văn
Ngày 20 tháng 9 năm 1956, tờ báo tư nhân mang tên Nhân văn ra số đầu tiên ở Hà Nội (hồi đó báo tư nhân còn được phép xuất bản, bên cạnh báo nhà nước). Chủ nhiệm báo là Phan Khôi, một người rất có uy tín và tên tuổi của ông mang lại sức nặng cho tờ báo – Phan Khôi khi đó đang có một hợp đồng dịch Lỗ Tấn với sự trợ cấp kinh phí của chính phủ.[157] Nhà văn, họa sĩ Trần Duy (sn. 1920) đảm nhiệm chức vụ thư kí tòa soạn. Trong một cuộc trò chuyện với tôi vào tháng 10 năm 2000 ở Hà Nội, một trong những nhân vật chính của Nhân văn miêu tả: “Tờ báo là một công cụ hết sức quan trọng cho cuộc đấu tranh vì tự do và chống lại sự nô lệ hóa về tinh thần, vì dân chủ và chống lại sự độc tài mang danh chuyên chính vô sản.” Có lẽ cái mục đích chính trị được diễn đạt rõ ràng và thẳng băng ra như thế vào năm 2000 đã hoàn toàn không tương đồng với những mục đích vốn có tính bộc phát của Nhân văn vào thời 45 năm trước, giữa cái mùa Đông đầu tiên sau Điện Biên Phủ và 1956/57.
Người thực chất đứng sau dự án Nhân văn là nhân vật đã được nhắc đến nhiều lần ở trên: nhà báo, nhà xuất bản, nhà chính trị Nguyễn Hữu Đang. Trong kháng chiến, ông từng là cộng sự thân cận của Tổng Bí thư Trường Chinh – hai người có quan hệ với nhau từ thời Mặt trận Bình dân những năm 1930. Năm 16 tuổi (1929), chịu tác động của các sự kiện chính trị nóng hổi trong nước, và mặc dù chưa hiểu biết gì về chủ nghĩa Marx, Nguyễn Hữu Đang đã gia nhập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, một tổ chức do Nguyễn Ái Quốc thành lập ở Trung Quốc. Sau một năm hoạt động bí mật, ông bị Pháp bắt và nhốt vào tù, nhưng vì còn ở tuổi vị thành niên, ông được Pháp thả cho về quê. Ông đã tìm thấy ở chủ nghĩa cộng sản con đường giải phóng dân tộc; chủ nghĩa cộng sản, như ông tự diễn giải, là phương tiện để đạt được mục đích.[158] Cùng với Trường Chinh trong ban biên tập tờ báo Tin tức của Đảng, ông có nhiệm vụ thuyết phục giới trí thức đi theo cách mạng. Theo sự ủy nhiệm của Hồ Chí Minh, ông đã tổ chức Lễ Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình ngày 2 tháng 9 năm 1945[159] – giờ phút của định mệnh mà ở đó “những người An-na-mít… đã trở thành những người Việt Nam”, như Rudy Schröder (tức Lê Đức Nhân) đã miêu tả sau này.[160] Ông trở thành Bộ trưởng Bộ Thanh niên đầu tiên trong chính phủ Hồ Chí Minh. Tháng 11 năm 1946, ông đã lãnh đạo việc tổ chức Hội nghị Văn nghệ Toàn quốc lần thứ nhất ở Hà Nội (hội nghị bị rút ngắn do kháng chiến sắp bùng nổ). Như đã nói ở trên, Nguyễn Hữu Đang đã đảm nhiệm chức vụ Hội trưởng Hội Truyền bá Quốc ngữ trong kháng chiến. Cũng vậy, như đã nói, đầu những năm 1940, ông vẫn được Trường Chinh tin cẩn giao nhiệm vụ, thông qua Hội Văn hóa Cứu quốc, huy động trí thức và văn nghệ sĩ tham gia kháng chiến.[161] Tuy nhiên sau nhiều năm song hành cùng Tổng Bí thư Đảng tại những vị trí then chốt trong chính sách văn hóa, Nguyễn Hữu Đang dần trở thành một đối thủ cạnh tranh quyền lực và là một người đối lập về tư tưởng với Trường Chinh. Những gì diễn ra trong những năm sau Điện Biên Phủ cho thấy, những hình dung của Nguyễn Hữu Đang và Trường Chinh về một xã hội mới cũng như vai trò của văn hóa-văn nghệ trong xã hội ấy đã trở nên đối nghịch nhau. Thực ra, sự đối lập này có lẽ đã xuất hiện từ Đại hội Văn hóa Toàn quốc năm 1948. Khi hồi tưởng lại, Nguyễn Hữu Đang cáo buộc Trường Chinh ngày đó đã quá đặt nặng “vai trò của tư tưởng Mác-Lê để hạ thấp truyền thống tiếp nhận văn hóa từ hàng nghìn năm của Việt Nam”. Ít lâu sau đó, trong một tập san nội bộ của Đảng, ông bị Trường Chinh phê phán là “thiếu kiên định tư tưởng”. [162] Theo nhiều nguồn kể lại, từ đó Nguyễn Hữu Đang đã không còn giữ vị trí nào trong kháng chiến nữa mà rút lui về nông thôn cùng người bạn Trần Thiếu Bảo – người sau này sẽ trở thành giám đốc Nhà xuất bản Minh Đức.[163] Chỉ sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Nguyễn Hữu Đang mới quay trở lại chính trường. Tuy nhiên khi được hỏi, ông luôn từ chối nói về những năm tháng này.
Những mâu thuẫn cơ bản của Nguyễn Hữu Đang giờ đây mới được thoát ra và chúng tìm được mảnh đất xã hội màu mỡ ở báo Nhân văn. Ông tóm tắt mục đích của mình với tờ báo như sau: “Đấu tranh cho dân chủ, chống lại chế độ chuyên chế kiểu Stalin và Mao Trạch Đông, nghĩa là, chống lại xu hướng toàn trị; tự do văn nghệ chỉ là một mảng trong cuộc đấu tranh bao quát nhiều lĩnh vực này.” Ba đòi hỏi chính trị đặc biệt được Nguyễn Hữu Đang miêu tả như sau: “Đòi quyền tự do dân chủ cho toàn thể nhân dân; Đòi quyền tự do cá nhân cho mọi công dân phù hợp với nhu cầu từng người; Đòi chính trị phải tuân thủ luật pháp, bao gồm việc tái thực hành Hiến pháp 1946, vốn đã bị tạm đình chỉ hiệu lực do hoàn cảnh kháng chiến.”[164] Nếu như trước đây, có lúc ông còn những ảo tưởng nào đó thì bây giờ, ông dồn tất cả cho mục đích: tập hợp giới trí thức văn nghệ sĩ để chống lại khuynh hướng toàn trị của cách mạng và chủ trương đơn nhất hóa của các cựu đồng chí của ông. Phải chăng Nguyễn Hữu Đang đã thực sự tin rằng ông có thể thắng trận chiến này? Liệu ông có ý thức được rằng ông đang phải đối diện với những lực lượng nào hay không? Những người quy tụ quanh ông ở Nhân văn có vẻ đều tin tưởng ở ông và đi theo ông với tất cả sự hứng khởi… “Il faut développer à l’outrance l’individualisme”, Nguyễn Hữu Đăng tuyên bố[165] – và Lê Đạt đòi hỏi: “Un poète doit garder jalousement sa singularité”. Có nghĩa là, nhà thơ phải cảnh giác trước các nhà chính trị, những kẻ luôn lợi dụng thơ ca cho mục đích của họ.[166]
Sau Điện Biên Phủ 1954, Nguyễn Hữu Đang đã chuyển sang giai đoạn thứ hai trong sự nghiệp chính trị của ông: sự nghiệp đấu tranh vì dân chủ, dân quyền và nhân quyền. Ông coi mình như một thành viên của giới trí thức trưởng thành từ “trường học của Cách mạng Pháp 1789”.[167] Với tư cách một nhà tổ chức dày dạn kinh nghiệm, Nguyễn Hữu Đang đã quy tụ giới  văn nghệ sĩ, như các nhà thơ quân đội Trần Dần và Hoàng Cầm, cũng như Lê Đạt, Trần Duy, và giới học giả, như nhà cựu học uy tín Phan Khôi, học giả Đào Duy Anh (1904-1988), triết gia Trần Đức Thảo và luật sư kiêm giáo sư văn chương Nguyễn Mạnh Tường[168], xung quanh tờ báo Nhân văn để làm một cuộc đột phá mới.[169]  Tất cả các nhân vật chính của Nhân văn ở cả hai nhóm đều thuộc giới trí thức vốn quen biết nhau từ trước: họ cùng đi học với nhau, sống gần nhau, thậm chí có quan hệ cọc chèo với nhau. Để làm tờ tạp chí, Nguyễn Hữu Đang đã nhắm tới Hoàng Cầm, Trưởng đoàn Kịch Quân đội, “thầy giáo tư” của tướng Nguyễn Chí Thanh, nhà thơ của quần chúng (“Nhân dân yêu tôi lắm”, Hoàng Cầm tự nói về mình với chút châm biếm), bạn thân của Trần Dần, người đã từng trình bày bản Dự thảo đề nghị 32 điểm với tướng Thanh.
Tuy nhiên, khác với Giai phẩm, Nguyễn Hữu Đang không có ý định làm Nhân văn trước hết như một tạp chí văn học, mà ưu tiên cho các chủ đề về thời sự chính trị Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Từ số đầu tiên cho tới số cuối cùng với kết cuộc cay đắng, câu hỏi tờ báo nên nghiêng nhiều hơn về văn nghệ hay nghiêng nhiều hơn về chính trị đã luôn gây tranh cãi trong nội bộ ban biên tập, giữa một bên là nhóm các văn nghệ sĩ và bên kia là Nguyễn Hữu Đang, nhà chính trị và nhà tuyên truyền. Các văn nghệ sĩ rõ ràng muốn đấu tranh cho tự do biểu đạt trong văn nghệ, nhưng đồng thời họ cũng cảnh báo nhóm kia đừng tấn công trực diện vào chính trị.[170] Song lúc này, ngay cả các văn nghệ sĩ cũng đã sẵn sàng chống lại hệ thống chuyên chế, hệ thống không cho con người cá nhân một không gian tự do nào, không cho phép bất kì cái gì khác Đảng, bởi vì các phương pháp trong Cải cách Ruộng đất giờ đây đang được thực hành trong lĩnh vực văn nghệ, và giới trí thức văn nghệ sĩ ý thức được rằng, những phương pháp và mô hình tổ chức xã hội mà họ chứng kiến trong quá trình Cải cách Ruộng đất sẽ trở thành mô hình tương lai cho toàn thể Việt Nam. Cải cách Ruộng đất là biểu hiện bệnh hoạn của hệ thống chuyên chế và Nguyễn Hữu Đang đã xuất hiện đúng lúc, Lê Đạt giải thích, bởi phong trào ly khai đã bùng phát do thái độ cứng nhắc của Đảng, và nếu không có Nhân văn thì chắc chắn sẽ có cái gì khác tương tự. Đòi hỏi về tự do văn nghệ đã không thể kìm hãm lâu hơn được nữa.[171]
Những hoạt động chuẩn bị cho báo Nhân văn của Nguyễn Hữu Đang đã không thể qua mắt giới lãnh đạo Đảng và Chính phủ. Những người này đã tìm cách phân hóa nội bộ các trí thức văn nghệ sĩ, bằng cách ngăn cản các cộng tác viên tiềm năng tham gia Nhân văn. Như đã nói ở trên, đại tá Lê Liêm, Tổng cục phó Tổng cục Chính trị Quân đội dưới quyền tướng Nguyễn Chí Thanh, đã nhân danh Bộ Chính trị thực hiện vài cuộc nói chuyện với các văn nghệ sĩ vào tháng 6.1956, vài tuần trước khi số báo đầu tiên ra mắt. Lê Liêm khẳng định sự trân trọng của ông cũng như của các vị lãnh đạo khác với văn nghệ sĩ và ghi nhận đóng góp to lớn của văn nghệ sĩ với cách mạng. Như Hoàng Cầm nhớ lại[172], Lê Liêm cũng thừa nhận rằng, những đòi hỏi của các văn nghệ sĩ là hết sức chính đáng, và những “sai lầm” của Đảng trong chính sách văn nghệ là do trình độ yếu kém của các cán bộ văn nghệ, và nhìn chung thì Đảng đồng ý với nhiều điểm trong các đòi hỏi của các văn nghệ sĩ. Lê Liêm nhấn mạnh rằng văn nghệ sĩ là bạn (chứ không phải kẻ thù) của Đảng, và chính vì thế họ cần có sự cảm thông chia sẻ với Đảng và tha thứ cho những sai lầm của Đảng. Giới lãnh đạo cao nhất sẵn sàng lắng nghe ý kiến văn nghệ sĩ, tất cả đều có thể được thảo luận và xem xét, nhưng phải tuân thủ hai điều: thứ nhất, họ phải chấm dứt cộng tác với Nguyễn Hữu Đang, bởi vì, như Lê Liêm giải thích, mục đích của Nguyễn Hữu Đang không phải là đấu tranh cho việc nới lỏng trí thức văn nghệ sĩ, mà Đang có tham vọng chính trị với mục tiêu lật đổ chính quyền xã hội chủ nghĩa. Thứ hai, các văn nghệ sĩ không nên công khai những đòi hỏi của mình bằng các bài viết đăng báo mà nên gửi kiến nghị tới lãnh đạo. Việc này cần phải giải quyết nội bộ (cũng như Đảng chỉ có thể thừa nhận những sai lầm của mình trong phạm vi nội bộ), bởi còn có vấn đề miền Nam và thống nhất đất nước.[173] Vì những lí do đó, văn nghệ sĩ trước hết cần phải đặt trọn niềm tin vào Đảng, bởi Đảng là lực lượng duy nhất có thể thống nhất đất nước. Trong hoàn cảnh hiện nay, mọi sự tự do đều phải đặt dưới kỉ luật Đảng, và chỉ có tuân thủ kỉ luật tư tưởng và kỉ luật đời sống mới mang lại tự do đích thực, trong đó có tự do văn nghệ. Ngược lại, nếu các văn nghệ sĩ công khai những đòi hỏi của mình trên báo chí thì quần chúng nhân dân miền Nam sẽ mất niềm tin vào Đảng. Phụng sự cho sự nghiệp của Đảng cũng đồng nghĩa với phụng sự cho sự nghiệp thống nhất đất nước (và hoàn thành mục tiêu cách mạng).[174] Thơ ca cần có tinh thần chiến đấu, nhà thơ cần phục vụ Đảng; thơ ca là vũ khí tuyên truyền,[175] hội họa là vũ khí cổ động.
Các văn nghệ sĩ đã không từ chối trực tiếp đề nghị này của Lê Liêm, mà họ đưa ra một số đề nghị ngược lại. Họ đồng ý sẵn sàng chấm dứt hợp tác với Nguyễn Hữu Đang, nếu giới lãnh đạo đồng ý kỉ luật những người chịu trách nhiệm trong vụ bắt Trần Dần và xin lỗi công khai về những sai lầm đã mắc phải từ trước đến nay trong chính sách văn nghệ. Nếu điều này không xảy ra, thì họ sẽ tự thực hiện bằng tờ báo sắp ra mắt. Trên thực tế, những đề nghị này không những đe dọa con người đầy quyền lực Tố Hữu mà còn đòi Đảng phải công khai xin lỗi. Nhưng đây lại chính là hai điểm không thể nào có thể thảo luận được. Báo Nhân văn phê phán giới lãnh đạo văn nghệ:
[…] còn một số người lạc hậu mang nặng tàn tích đế quốc và phong kiến, tuy đứng trong hàng ngũ cách mạng, nhưng vì quyền lợi, địa vị cá nhân, nên có hành động hoặc lời nói vu cáo, đe doạ định bóp nghẹt dân chủ bằng những phương pháp khi lén lút, khi trắng trợn… […] báo Nhân văn bao giờ cũng đứng dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, kiên quyết đấu tranh cho thống nhất đất nước và dân chủ thực sự […][176]
Ngay cả trong thời gian báo Nhân văn đã hoạt động vẫn có những cuộc đàm phán giữa những đại diện cao nhất của giới lãnh đạo với các thành viên Nhân văn. Trần Duy kể lại rằng, sau khi Nhân văn số 4 ra mắt, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã cho mời ông lên nói chuyện và lưu ý ông không được quên “tình hình đất nước” và mục tiêu dân tộc, và đừng làm gì ảnh hưởng tới an ninh quốc gia. Phạm Văn Đồng đề nghị Trần Duy từ giờ nếu có kiến nghị gì thì cứ việc liên hệ trực tiếp với ông, và ông hứa sẽ đề đạt lại với Bộ Chính trị, ngoài ra ông còn cho biết sẵn sàng ủng hộ toàn bộ chi phí cho việc in ấn báo Nhân văn. Khi Trần Duy kể lại việc này, những người chủ trương Nhân văn đã cáo buộc ông bắt tay với chính quyền. Dù sao về phần mình, sau cuộc gặp gỡ này, Trần Duy quả thực cho rằng nên dừng Nhân văn (“vì tất cả đều quá mệt mỏi, mà chúng tôi đều không được chuẩn bị cho cuộc chiến đấu này”). Có vẻ như sau đó còn có những cuộc gặp giữa Trần Duy, Văn Cao phía bên này với Trường Chinh, Nguyễn Đình Thi phía bên kia. Nguyễn Đình Thi nói với Trần Duy: “Mình rất quí cậu, sao cậu lại làm chuyện rắc rối này, cậu là một họa sĩ, nghề của cậu là vẽ…”. Và Trường Chinh thì nói: chúng ta đã có tất cả các tờ báo cần thiết rồi, tại sao các cậu lại phải làm một tờ báo như thế. Và Trần Duy cho rằng cách bày tỏ thái độ của Trường Chinh như thế là “très, très raisonnable” (hết sức hợp lý), bởi vì “kẻ thù” sẽ lợi dụng, và Nhân văn sẽ phá hoại nền độc lập và sự nghiệp thống nhất đất nước. Theo Trần Duy thì Bộ Chính trị đã làm hết sức để can ngăn ông và những đồng sự của ông.[177] Như vậy, rõ ràng trong nhóm những nhà ly khai cũng có sự bất đồng và các quan điểm mâu thuẫn nhau; mối nghi ngờ của một số văn nghệ sĩ với Trần Duy, người bị họ coi là đầu hàng và thỏa hiệp, vẫn còn kéo dài cho đến nay.[178]
Nhân văn được xuất bản dưới hình thức báo và thoạt tiên được thực hiện từ tiền túi của các thành viên chủ trương. Tờ báo đã gặt hái thành công vượt bậc, gây chú ý và sợ hãi. Chỉ vài ngày, báo đã bán được 6.000-7.000 bản, một con số rất lớn ở Hà Nội hồi đó.[179] “Chúng tôi ngồi trên lưng hổ – nếu chúng tôi đứng im, con hổ sẽ hất chúng tôi xuống; nếu chúng tôi nhảy xuống, con hổ sẽ ăn thịt. Vậy là chúng tôi cứ bị đẩy đi”, Trần Duy nhớ lại.[180]  Nhân văn số 1 đăng một bài viết dài của Hoàng Cầm kể câu chuyện bi kịch của Trần Dần. Bài viết có nhan đề “Con người Trần Dần” với một bức minh họa của Nguyễn Sáng vẽ Trần Dần với vết sẹo ở cổ từ lần (giả vờ) tự tử – một bằng chứng hùng hồn tố cáo giới lãnh đạo văn nghệ. Trong Nhân văn số 3, nhà thơ Chu Ngọc tuyên bố: “Chúng tôi chỉ muốn thực hiện đúng phương châm trong việc phê bình của chúng ta là: Nói thẳng, nói thật, nói hết.”[181] Nhưng, như Trần Duy đã viết trong bài “Phấn đấu cho trăm hoa đua nở” in ở trang đầu báo Nhân văn số 2 ngày 30.9.1956: “Thực tế ở xã hội chúng ta, vấn đề thực hiện trăm hoa đua nở không phải là một việc đơn thuần dễ dàng. Một khẩu hiệu không thôi, không đủ sức mạnh để khai thông tất cả những đầu óc bảo thủ, quan liêu, đã quen với những tác phong lãnh đạo lỗi thời, chỉ lăm le buộc văn học, nghệ thuật vào những khẩu hiệu khô khan, những chính sách cùng những nguyên tắc máy móc về kinh tế và xã hội.”[182]  Còn Lê Đạt tuyên bố: “Người công an đứng ngã tư đường phố… rất cần cho việc giao thông… Nhưng đem bục công an… đặt giữa tim người… có thể gây rất nhiều chua xót…”.[183]
Các đòi hỏi ngày càng vượt ra khỏi lĩnh vực văn nghệ và lan sang các chủ đề chính trị-xã hội, như các thảo luận về tính chính danh của chính quyền, về nhân quyền và dân chủ, nghĩa là đòi canh tân hệ thống – và như vậy nghĩa là đòi có đa nguyên chính trị (dù chỉ úp mở). Ngay cả những người vốn né tránh hoạt động chính trị mà chỉ giới hạn hoạt động của mình như những trí thức hoặc văn nghệ sĩ  thuần túy cũng không thể che giấu đòi hỏi này, nhất là sau các sự kiện ở Moskva, Hungary và Ba Lan (và dĩ nhiên cả những sự kiện ở Đại lộ Stalin ở Berlin tháng 6.1953). Báo Nhân văn số 5 có bài viết kí tên Người quan sát: “Bài học Ba Lan và Hungari”. Nhiều người ở Hà Nội cả quyết với tôi rằng tác giả bài viết đó là Lê Đạt. Trong bài viết này, tác giả phân biệt giữa dân chủ với nhân dânchuyên chính với kẻ địch. Tác giả đòi hỏi phải nhanh chóng sửa chữa những sai lầm đã mắc phải, nâng cao mức sống nhân dân và mở rộng các quyền tự do dân chủ. Tác giả viết, ở Ba Lan và Hungary, “sự tôn sùng Sta-lin, và những sai lầm của Sta-lin ảnh hưởng sâu xa đến một số đông những đảng cộng sản và công nhân trên thế giới, đã vi phạm nghiêm trọng đến đời sống và quyền tự do của con người”.[184]  Chủ trương hộc tiến lên chủ nghĩa xã hội, quá coi trọng công nghiệp nặng, coi thường nông nghiệp và tiểu thủ công đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống của nhân dân. Lý luận sai lầm cho rằng càng tiến tới chủ nghĩa cộng sản thì đấu tranh giai cấp càng quyết liệt đã dẫn tới áp dụng chuyên chính với cả đảng viên và quần chúng và vi phạm trầm trọng nền pháp trị xã hội chủ nghĩa.[185]
Bài viết “Cần phải chính quy hơn nữa” của Nguyễn Hữu Đang đăng ở trang đầu báo Nhân văn số 4 ngày 5.11.1956 đã đi quá giới hạn chịu đựng của Đảng. Nội bộ nhóm biên tập đã tranh cãi quyết liệt vì một số người cho rằng bài báo quá trực diện chính trị, và nếu cho in thì chính quyền có thể cho đóng cửa tòa báo. Nguyễn Hữu Đang viết: “Vì lòng khinh bỉ của chúng ta đối với pháp lý tư sản lớn quá đến nỗi ở một số đông người nó đã trở thành lòng khinh bỉ pháp lý nói chung. Vì trong cuộc kháng chiến kéo dài và gian khổ, chúng ta đã quen giải quyết mọi công viêc to nhỏ trong không khí gia đình, với tinh thần tuỳ tiện. Chúng ta đã quen dùng cái linh động để gỡ cho công việc trôi chảy được mỗi khi vấp phải điều quy định chính xác. Chúng ta đã quen dùng cái lập trường để thay cho luật lệ cụ thể […] Trong Cải cách Ruộng đất, những việc bắt người, giam người, tra hỏi (dùng nhục hình dã man), xử tù, xử bắn, tịch thu tài sản, hết sức bừa bãi, bậy bạ, cũng như việc bao vây đến làm chết đói những thiếu nhi vô tội trong các gia đình địa chủ (hoặc chính là nông dân mà bị quy sai thành phần), không phải chỉ hoàn toàn do sự lãnh đạo kém cỏi mà còn do thiếu chế độ pháp trị hẳn hoi.”[186]
Tiếp theo, Nguyễn Hữu Đang bàn về nhân quyền trong bài trang Nhất báo Nhân văn số 5 với nhan đề “Hiến pháp Việt Nam năm 1946 và hiến pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào?”. Nguyễn Hữu Đang viết rằng, do hoàn cảnh chiến tranh, Hiến pháp 1946 đã tạm thời bị hoãn thi hành, nhưng nay tình hình miền Bắc đã dần trở lại bình thường, vì vậy cần cấp thiết xem xét thực hiện Hiến pháp, đặc biệt là Điều 10, quy định về các quyền tự do dân chủ của nhân dân. (Điều 10 Hiến pháp 1946: Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận; Tự do xuất bản; Tự do tổ chức và hội họp; Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra ngoài nước.)[187] Bản can của số báo này (cũng như các số trước) được các cán bộ của xưởng in, vốn là những đảng viên đầy tinh thần kỉ luật, chuyển tiếp cho lãnh đạo Đảng, và số báo đã bị cấm ngay tập tức.[188] Trong một báo cáo gửi từ Hà Nội, phóng viên hãng thông tấn CHDC Đức (AND) Erwin Borchers (tên Việt Nam là Chiến Sĩ) viết: “Quan điểm chung là không thể để những kẻ phá hoại này tiếp tục lộng hành nữa […] và đã đình chỉ hai số báo”.[189]
Nhân văn số 6 đã lên khuôn và đang chuẩn bị in thì bị chặn lại. Ngày 15.12.1956, Ủy ban Hành chính Hà Nội đã ban lệnh đình bán và cấm lưu hành báo Nhân văn với lý do Nhân văn đã có những bài viết: “xuyên tạc sự thật, gây hoang mang chia rẽ trong dư luận, gieo rắc sự nghi ngờ vào chế độ dân chủ nhân dân, dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng, phá hoại trật tự và đời sống yên bình của nhân dân thành phố.”[190]
Trở lại Mục Lục