Mạc Định dịch
Mục lục
Giới thiệu tác giả và tác phẩm
Lời giới thiệu của giáo sư P. J. Honey
Lời tựa của tác giả
Phần 1
Cái vinh và cái nhục của một tiểu nhược quốc
Chương 1 Sứ mạng lịch sử của dân tộc Việt Nam
Chương 2 Việt Nam trong lịch sử hiện đại
Phần 2
Nước mất lại còn
Chương 3 “Bác Hồ”, vị cứu tinh của dân tộc
Chương 4 Cộng sản xuất hiện
Chương 5 Có công mài sắt, có ngày nên kim
Phần 3
Chuẩn bị thành lập chế độ độc tài
Chương 6 Bần cùng hoá toàn dân
Chương 7 “Đấu chính trị”
Chương 8 Danh sách Việt gian
Phần 4
Cải tạo tư tưởng
Chương 9 Công tác tư tưởng
Chương 10 Kiểm thảo
Chương 11 Chỉnh huấn
Chương 12 Năm bài học
Phần 5
Cải cách ruộng đất
Chương 13 Đại cương về cải cách ruộng đất
Chương 14 Chiến dịch giảm tô
Chương 15 Cải cách ruộng đất đích thực
Chương 16 Sửa sai
Chương 17 Chống đối chế độ
Chương 18 Con đường thắng tới cộng sản chủ nghĩa
Giới thiệu tác giả tác phẩm
Các bạn đọc có thể ngạc nhiên khi thấy một cuốn sách tiếng Việt, tác giả là người Việt, mà lại là bản dịch. Trường hợp có hơi bất thường nhưng lý do là tại tác giả, ông Hoàng Văn Chí đã viết nguyên bản bằng tiếng Anh, xuất bản ở ngoại quốc để trực tiếp trình bày vấn đề Việt Nam với độc giả quốc tế và phổ biến kinh nghiệm Việt Nam rộng ra khắp thế giới tự do.
Ông Hoàng, hiện còn bôn ba ở hải ngoại, đã tự giao cho mình trọng trách này vì trước khi rời khỏi Bắc Việt, năm 1955, ông đã hứa với các bạn bè trong hàng ngũ trí thức kháng chiến là ông sẽ cố gắng nói lên tâm trạng đau thương của họ và của toàn thể nhân dân miền Bắc đương quằn quại dưới chế độ cộng sản. Sau mười năm cặm cụi theo đuổi mục đích, ông Hoàng đã hoàn tất một phần lớn nhiệm vụ tinh thần kể trên vì như ông P. J. Honey, giáo sư đại học đường ở Luân Đôn đã công nhận, chính nhờ ở các tác phẩm của ông Hoàng mà thế giới bên ngoài đã biết nhiều về nội tình Bắc Việt và chiến thuật Mao Trạch Đông. Thực sự, không một tác phẩm nào của ông không được phổ biến khắp thế giới tự do, dịch ra năm bảy thứ tiếng, từ tiếng Đan Mạch đến các thổ ngữ Ấn Độ, từ các tiếng Á Đông đến tiếng I-pha-nho ở Nam Mỹ. Hiện nay ông là nhà văn Việt Nam có nhiều độc giả nhất ở ngoại quốc.
Sinh tại Thanh Hoá năm 1913 trong một gia đình Nho giáo có truyền thống cách mạng, ông đã từng tham gia cuộc bãi khoá năm 1926, phong trào “Le Travail” năm 1936, hoạt động trong Đảng Xã hội SFIO năm 1937–39, và tham gia kháng chiến chống Pháp từ đầu đến cuối (1946-54). Ông giúp chính phủ kháng chiến với chức vụ một chuyên viên, phụ trách đúc tiền, làm giấy in bạc, chế tạo hoá chất cho quốc phòng. Nhưng sau Hiệp định Genève, mặc dù đã được ông Hồ Chí Minh tuyên dương công trạng trong toàn quốc, ông quyết tâm rời bỏ Bắc Việt, di cư vào Nam. Trong bốn năm ở Sài Gòn, ông đã để lại nhiều bài báo bằng tiếng Việt, Anh, Pháp, Hoa và đặc biệt là tập truyện ngắn, vừa hài hước vừa chua chát, nhan đề Phật rơi lệ, và một thiên khảo cứu về phong tục học nhan đề Đính chánh một định kiến sai lầm về nguồn gốc dân tộc Việt Nam đăng trong báo Ngày mới xuất bản tại Sài Gòn năm 1958. Vì một sự nhầm lẫn nào đó, bài này đã được dịch ra Anh văn và đăng trong tạp chí Asian Culuture của Hội Liên lạc Văn hoá Á châu, năm 1961, ký tên ông Nguyễn Đăng Thục, Hội trưởng Hội Văn hoá kể trên.
Chúng tôi được quen ông Hoàng Văn Chí hồi chúng tôi nhờ ông đề tựa cuốn Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, do chúng tôi soạn năm 1959. Nhưng chỉ mấy tháng sau, ông tình nguyện đi Ấn Độ, giữ chức phó lãnh sự tại New Delhi. Ra sân bay, ông có tâm sự với chúng tôi là mục đích của ông không phải là làm ngoại giao mà là để có dịp nói lên sự thực của cả hai chế độ: Hồ Chí Minh và Ngô Đình Diệm. Quả nhiên ông chỉ ở Ấn Độ đúng một năm, đủ thì giờ để kết giao với một số nhà báo, nhà văn Ấn Độ. Năm 1960, ông sang Thuỵ Sĩ, sang Anh và lưu trú 5 năm tại Paris, nơi mà ông viết cuốn sách này. Sách đồng thời xuất bản ở Luân Đôn, Nữu Ước, New Delhi, bản dịch tiếng I-pha-nho xuất bản ở Buenos Aires và có nhà xuất bản đã mua bản quyền tiếng Nhật, Triều Tiên, Thái, Mã Lai, v.v. Nhận thấy không lẽ một tác phẩm hoàn toàn bằng tiếng Việt phát hành khắp thế giới mà nhân dân Việt Nam không có dịp thưởng thức, nên chúng tôi yêu cầu tác giả cho phép dịch ra tiếng Việt. Bản dịch này được tác giả duyệt lại, sửa chữa một vài sơ suất trong bản tiếng Anh in tại Luân Đôn và thêm bớt một vài câu cho bớt tính chất văn dịch.
Sau cùng chúng tôi xin lưu ý các bạn đọc về một điểm sau đây: Vì mục đích của cuốn sách là trình bày chiến thuật Mao Trạch Đông áp dụng tại Bắc Việt, hướng về các độc giả ngoại quốc, nên phần nhắc lại lịch sử dân tộc và lịch sử cách mạng Việt Nam chỉ tóm tắt qua loa, vừa đủ để người ngoại quốc chưa hề biết đến nước ta có thể nắm được đại cương vấn đề. Vì tóm tắt nên không thể trình bày đầy đủ chi tiết, do đó độc giả trong nước có thể có cảm tưởng là quá sơ sài và thiếu chính xác. Về điểm này, thay lời tác giả, chúng tôi xin thành thực xin lỗi các bạn đọc.
Mạc Định
Dịch từ nguyên bản tiếng Anh nhan đề: From Colonialism to Communism, xuất bản năm 1964 đồng thời tại: Anh (The Pall Mall Press Ltd. 77–79 Charlotte Street, London W.I.), Hoa Kỳ (F. A. Praeger inc, Publisher III, 4th Ave. New York, N.Y.), Ấn Độ (The Allied Publishers, 13-14 Asaf Road, New Delhi). Cùng với bản tiếng Việt này đã có những bản dịch sau đây: Tiếng Bồ Đào Nha (Nhà xuất bản GRD, Rio de Janeiro, Brésil), tiếng I-pha-nho (Nhà xuất bản Editorial SUR, Buenos Aires, Argentine), tiếng Pháp (Nhà xuất bản MAME, Tours, Pháp).
Lời chú thích của dịch giả
Tất cả các đoạn văn trích trong báo chí Bắc Việt đều là nguyên văn, trừ hai bản báo cáo của Trường Chinh, vì không có nguyên bản tiếng Việt nên tác giả đã dịch ra Anh văn từ bản tiếng Pháp do Bắc Việt xuất bản. Chúng tôi cũng dịch theo bản tiếng Pháp ấy.
Do lời yêu cầu của chúng tôi, cũng như của nhà xuất bản tiếng Pháp và tiếng I-pha-nho, tác giả đã viết lại Chương 18 (Chương cuối) để trình bày thêm về tình hình Bắc Việt từ 1962 đến 1965.
*
Lời giới thiệu của giáo sư P. J. Honey
Trước Thế chiến thứ Hai, không mấy ai ở thế giới bên ngoại biết đến nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam và hoạ chăng chỉ nghe nói đến Đông Pháp, trong đó có xứ “An Nam”. Ngoại trừ người Pháp, không mấy người Tây phương biết đến Việt Nam là một quốc hiệu, và số du khách có dịp ghé qua Việt Nam lại càng hiếm hơn. Vì vậy, năm 1945, dư luận thế giới rất đỗi ngạc nhiên khi báo chí loan tin có một chính phủ mệnh danh là “Việt Nam Dân chủ Cộng hoà” tuyên bố độc lập đối với Pháp. Nhưng vì đồng thời, việc chấm dứt chiến tranh với Nhật Bản gây nên nhiều biến cố khác, nên dư luận thế giới lại lãng quên vấn đề Việt Nam, cho mãi đến cuối năm 1946, khi chiến tranh bùng nổ giữa Pháp và Việt Nam, báo chí thế giới một lần nữa lại nói đến Việt Nam. Nhưng dư luận hồi ấy cho rằng quân đội Việt Nam thiếu luyện tập và chỉ có những vũ khí thô sơ, nên không thể kháng cự nổi với đội quân viễn chinh hùng hậu của Pháp, và chẳng bao lâu sẽ bị dẹp tan.
Nhưng chiến cuộc mỗi ngày một lan rộng, vì Pháp tỏ ra bất lực không dẹp nổi phong trào kháng chiến Việt Nam, hồi đó thường gọi là Việt Minh. Nhiều người Tây phương, và đặc biệt những người Mỹ quan tâm đến thời cuộc Viễn Đông, cho rằng chiến tranh ở Việt Nam là do những phần tử quốc gia lãnh đạo, với mục đích giành lại độc lập cho quốc gia họ. Hoa Kỳ không trực tiếp can thiệp, nhưng một phần nào, có thiện cảm với Việt Minh. Vì chiến tranh “lạnh” mỗi ngày một bành trướng nên dần dần các quốc gia Tây phương mới thấy rõ âm mưu sâu rộng của cộng sản. Lúc bấy giờ Hoa Kỳ mới ngả theo quan điểm của Pháp, nhận định Việt Minh không phải là một phong trào thuần tuý quốc gia, mà thực sự là một phong trào cộng sản chiến đấu với mục đích thiết lập chế độ cộng sản trên một phần đất Á châu. Vì vậy nên Hoa Kỳ bắt đầu viện trợ mỗi ngày một nhiều cho quân đội Pháp và quân đội Quốc gia Việt Nam mới thành lập. Mặc dù vậy, Việt Minh vẫn thắng trận. Trận Điện Biên Phủ kết thúc chiến cuộc, và hội nghị quốc tế họp ở Genève, đầu năm 1954, mang lại hoà bình ở Việt Nam.
Chiếu theo hiệp định Genève thì Việt Nam bị chia đôi dọc theo vĩ tuyến 17, miền Bắc đặt dưới quyền kiểm soát của cộng sản, và miền Nam vẫn thuộc quyền phe quốc gia. Đây là lần đầu tiên một quốc gia cộng sản xuất hiện ở Đông Nam Á ,và sự kiện này vô cùng quan trọng. Từ ngàn xưa con đường từ Đông Á xuống Đông Nam Á vẫn xuyên qua Việt Nam, và trong lịch sử hiện đại, chính vì Nhật Bản chiếm cứ được miền này năm 1941, nên trong chớp nhoáng Nhật Bản đã thôn tính được toàn thể Đông Nam Á. Không ai không nhìn thấy âm mưu của khối Cộng sản là sử dụng Bắc Việt như một bàn đạp để tràn xuống phía Nam. Hoa Kỳ đã phải rút khỏi nước Lào, và chiến tranh hiện nay đương tiếp diễn tại Nam Việt. Chiến cuộc ở Việt Nam có thể mở đầu cho một cuộc xâm lăng rộng lớn của cộng sản.
Muốn ngăn cản cuộc xâm lăng kể trên một cách hữu hiệu, công việc đầu tiên là phải tìm hiểu chiến lược và chiến thuật của cộng sản thì mới có thể dự đoán được kế hoạch của họ và dự trù biện pháp đối phó. Nhưng vì cộng sản Việt Nam rất ít sáng kiến về quân sự và chính trị, nên thực sự việc ấy không khó khăn như thoạt đầu nhiều người tưởng tượng. Họ chỉ ưa bắt chước và áp dụng những chiến thuật đã được thử thách ở các nước đàn anh. Bác sĩ Nguyễn Ngọc Bích, một nhà học giả Việt Nam rất uyên thâm, đã phê bình cộng sản Việt Nam như sau: “Bất cứ sau một biến cố hay một hành động nào, Việt cộng cũng tổ chức kiểm thảo để tìm ưu khuyết điểm. Mục đích của kiểm thảo là để tránh những sai lầm cũ, không phải để hoạch định kế hoạch cho tương lai. Nhưng vì thiếu sáng kiến nên mỗi lần hoạch định kế hoạch cho tương lai, Việt cộng thường ưa áp dụng những biện pháp đã từng mang lại thắng lợi trong quá khứ. Họ không đủ sáng suốt để nhận định rằng mỗi tình hình mới đòi hỏi một kế hoạch thích ứng và hoàn toàn mới. Chính vì vậy mà Việt cộng thường bị phê bình, mặc dù có đôi khi quá đáng, là chỉ ưa bắt chước và áp dụng những chiến thuật cũ kỹ, không hề sáng tác được chiến thuật nào có thể gọi là mới”.
Chỉ có những lãnh tụ cộng sản mới biết rõ những giai đoạn họ đã vượt qua để lên nắm chính quyền ở Bắc Việt, và cũng chỉ có họ mới biết rõ họ đã trù tính và ấn định mỗi giai đoạn phải như thế nào. Tuy nhiên những người trong hàng ngũ kháng chiến họ có đủ kiến thức và óc quan sát để nhận định những sự việc xảy ra xung quanh họ, phân tích chính sách, đường lối từ trên ban xuống, rất có thể nghiên cứu và trình bày những sự việc đã qua với một độ chính xác rất cao.
Với hoài bão tranh đấu cho nền độc lập của xứ sở, ông Hoàng Văn Chí, tác giả cuốn sách này, đã tham gia kháng chiến ngay từ phút đầu. Mặc dù ông không phải là môn đồ của chủ nghĩa Mác-xít, và ông thừa biết phong trào kháng chiến đã bị Việt cộng lũng đoạn, ông vẫn tích cực tham gia, vì ông cho rằng, nếu những phần tử quốc gia không tham gia kháng chiến sẽ thất bại, và Pháp sẽ có cơ hội đặt lại nền đô hộ trên đất nước Việt Nam. Nhưng sau khi Pháp đã thất bại, ông Hoàng Văn Chí không do dự đứng về phe quốc gia để chống cộng sản.
Trong thời gian kháng chiến, ông Hoàng có điều kiện thuận tiện để nghiên cứu chiến thuật và lập luận của cộng sản. Ông đã chứng kiến việc cán bộ Trung Quốc bắt buộc Bắc Việt phải tuân theo đường lối của họ Mao, và ông đã dự nhiều cuộc đấu tố trong dịp “Cải cách ruộng đất” mà vô số nhân dân Bắc Việt đã bị giết chóc một cách tàn khốc.
Phần lớn những sự việc tường thuật trong cuốn sách này do chính ông Hoàng, nghe tận tai, thấy tận mắt. Phần còn lại là kết quả một công cuộc sưu tầm sâu rộng của ông. Trong suốt cuốn sách, tác giả tường thuật một cách cặn kẽ cộng sản đã lợi dụng và thao túng phong trào ái quốc giành độc lập như thế nào, và đã thành lập chế độ cộng sản ở Bắc Việt như thế nào. Chỉ riêng về phương diện này cuốn sách cũng đã là một công cuộc khảo cứu hết sức quan trọng về chiến thuật hiện đại của cộng sản. Nhưng, hơn nữa, là vì chính những chiến thuật ấy lại đương được áp dụng ở Nam Việt, và rất có thể trong tương lai, ở nhiều nước khác thuộc Đông Nam Á, nên chắc chắn tác phẩm của ông Hoàng sẽ trở thành một cuốn sách giáo khoa mà mọi người có ít nhiều trách nhiệm chống cộng ở Á châu đều cần phải nghiên cứu.
Bằng những tác phẩm Anh văn đã từng xuất bản, ông Hoàng Văn Chí đã cống hiến cho thế giới bên ngoài rất nhiều kiến thức về cộng sản Việt Nam, và gần đây, trong bài báo mới nhất của ông, nhan đề “Sản xuất lúa gạo dưới chế độ nông nghiệp tập thể”, đăng trong tạp chí China Quarterly, số 9, tháng 2 năm 1962, ông đã giải thích tại sao nông nghiệp không những thất bại ở Bắc Cao. Theo thiển ý của tôi thì tác phẩm này sẽ là một trong những tác phẩm tiêu chuẩn về cộng sản Á châu.
P. J. Honey
Giáo sư trường nghiên cứu Á Phi của Luân Đôn đại học đường
*
Lời tựa của tác giả
Tường thuật giai đoạn cuối cùng của cuộc cách mạng phản đế quốc ở Việt Nam, cuốn sách này chuyên nghiên cứu một chiến thuật thường được mệnh danh là “Cải cách ruộng đất”, một chiến thuật mà các lãnh tụ cộng sản Bắc Việt đã áp dụng để biến cuộc chiến đấu ái quốc giành độc lập thành một công cuộc thiết lập chế độ vô sản chuyên chính. Đấy là một chiến thuật tinh vi, lợi dụng tâm lý quần chúng đến triệt để, có thể coi là phần đóng góp lớn nhất của Mao Trạch Đông đối với lý thuyết Mác-xít-Lê-nin-nít. Theo thiển ý của tác giả thì “Cải cách ruộng đất” là một trong những sáng kiến quan trọng nhất trong lịch sử hiện đại.
Bắt nguồn từ chủ trương căn bản của họ Mao là cách mạng vô sản có thể dùng nông dân làm lực lượng căn bản, “Cải cách ruộng đất” đã được mang ra thử thách lần đầu tiên, dưới một hình thức thô sơ, trong cuộc nông dân bạo động ở Hồ Nam năm 1926. Sau khi cuộc bạo động này thất bại và cộng sản Trung Hoa phải ấn náu ở Diên An, trong hơn mười năm, họ Mao đã nhân đó mà sửa chữa lại đường lối và kiện toàn lại toàn bộ chiến thuật của ông ta. Nhờ vậy mà sau khi nắm được chính quyền ở Trung Hoa lục địa, ông Mao đã tiêu diệt được tất cả các phong trào chống đối, và những thất bại liên tiếp trong các phong trào “nhảy vọt”, hoặc tiến, hoặc thoái, không lay chuyển nối chế độ do ông thành lập.
Chiến thuật “Cải cách ruộng đất” mà ông Mao áp dụng trên toàn thể lãnh thổ Trung Hoa lục địa ngay sau khi Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa được thành lập là dựa theo hoàn cảnh xã hội và tinh thần của nhân dân Trung Hoa. Chỉ vài năm sau là chiến thuật ấy được mang áp dụng ở Bắc Việt, dưới sự lãnh đạo của một số cố vấn Trung cộng.
Nhân sống ở khu Bốn, là miền cộng sản kiểm soát từ đầu đến cuối, tôi được dịp chứng kiến phong trào “Cải cách ruộng đất”, vừa thán phục vừa kinh hoàng.
Trong những trang sau đây tôi cố gắng diễn tả những gì tôi đã thấy - hoặc đôi khi đã tham dự - với mục đích nhỏ mọn là đóng góp chút ít vào công cuộc phát triển khoa học xã hội, và đồng thời cống hiến cho các tác giả ngoại quốc thường viết về Việt Nam hoặc về Á Đông, một vài chi tiết mà từ trước tới nay họ chưa từng biết.
Toàn bộ vấn đề không thể thu gọn trong một cuốn sách nhỏ, nên ở đây tôi chỉ nêu lên một cách hết sức khách quan một vài yếu tố chính của vấn đề Việt Nam. Tôi cũng muốn nhấn mạnh là tôi không định tâm bênh vực hoặc đả phá một lý thuyết hay một chế độ chính trị nào, vì tôi quan niệm tất cả đều lỗi thời. Tôi không có hoài bão nào khác là trình bày đúng đắn những kinh nghiệm xưa và nay của Việt Nam để góp phần xây dựng cho mai hậu, một triết lý hoàn toàn mới, phù hợp với những phát minh mới nhất của khoa học và kỹ thuật hiện đại.
Paris, tháng 6, 1962
Hoàng Văn Chí
*
Phần 1 - Cái vinh và cái nhục của một tiểu nhược quốc
Chương 1 - Sứ mạng lịch sử của dân tộc Việt Nam
Việt Nam là một phần đất của Á châu. Vị trí địa lý của Việt Nam đối với lục địa Á châu quyết định một phần lớn tiền đồ cũng như sứ mạng mà lịch sử đã giao phó cho dân tộc Việt Nam trong mấy ngàn năm nay.
Chúng ta hãy so sánh Âu châu. Âu châu là một đơn vị địa lý duy nhất, không núi cao, sông không rộng nên trong nội địa Âu châu văn hoá thường được trao đổi và các nòi giống thường được pha trộn một cách tương đối dễ dàng. Địa lý Á châu có một điểm trái ngược với Âu châu. Lục địa Á châu bị dãy núi Hi-ma-lay-a, và tiếp theo là dãy Trường Sơn phân chia thành hai đơn vị địa lý văn hoá riêng biệt. Đơn vị phía Bắc thuộc ảnh hưởng Trung Quốc, đơn vị phía Nam chịu ảnh hưởng Ấn Độ.
Việc phân chia địa lý này có rất nhiều ảnh hưởng. Trong khi một vài tư tưởng và đạo lý có thể truyền bá từ Nam lên Bắc và một vài bộ lạc có thể từ từ di chuyển từ Bắc xuống Nam, qua dẫy Hi-ma-lay-a, dãy núi này vẫn là một “Vạn lý trường thành” chặn đứng không cho bên nào tấn công quân sự bên nào. Chính nhờ vậy mà Ấn Độ và các quốc gia khác thuộc Nam Á đã duy trì được nền văn hoá, tổ chức xã hội và chính trị riêng của họ, không bị văn hoá Hán tộc xâm nhập và không hề bị binh mã của “Thiên triều” quấy nhiễu. Ngay cho tới ngày nay, dãy trường thành này vẫn đóng một vai trò tối quan trọng. Nếu một ngày kia Ấn Độ và Trung cộng có thể thoả thuận công nhận giới tuyến Mac Mahon là biên giới thiên nhiên giữa hai nước, và nếu Hoa Kỳ đủ sức bảo vệ Việt Nam Cộng hoà và duy trì một nền trung lập chân chính ở Lào thì dãy Hi-ma-lay-a-Trường Sơn, chạy dài từ Kashmir ở phía Tây đến Việt Nam ở phía Đông, sẽ là bức bình phong đứng giữa hai khối: khối Cộng sản và khối Không cộng sản trên lục địa Á châu. Chỉ vị kỵ binh của Hán, Nguyên, và Thanh triều không hề vượt qua dãy núi này, vì không vượt nổi, nên nhiều chính khách ở Nam và Đông Nam Á đã nhẹ dạ tin tưởng ở cái mà họ mệnh danh là “tình hữu nghị cổ truyền với Trung Quốc”. Khi họ đề ra thuyết trung lập và sống chung hoà bình, họ đã trông cậy quá nhiều vào dãy núi này coi như một cái mốc che chở cho xứ sở của họ.
Nhưng những biến cố gần đây đã chứng tỏ rằng bức trường thành thiên tạo này không còn hiệu nghiệm như xưa, không chặn nổi sự xâm nhập và cả những cuộc tấn công quân sự của cộng sản. Về phía Tây thì Ấn Độ hiện đương lo phòng thủ biên thuỳ Ấn-Hoa, còn về phía Đông, Hoa Kỳ đương ra sức bảo vệ Việt Nam Cộng hoà và Thái Lan khỏi bị rơi vào tay cộng sản. Nhưng so sánh thì các nước ở phía Đông bị đe doạ nhiều hơn các nước ở phía Tây, vì dãy Trường Sơn phân cách Lào và Việt không cao và hiểm trở bằng dãy Hi-ma-lay-a phân cách Ấn Độ và Tây Tạng. Hơn nữa, Bắc Kinh nối liền với Hà Nội bằng một đường xe lửa, mà trái lại, đường bộ từ Bắc Kinh đến Lhasa, thủ đô Tây Tạng, thì khó khăn, hiểm trở. Vì vậy nên hiện nay cũng như từ ngàn xưa, Trung Quốc vẫn coi Việt Nam là con đường thuận tiện nhất cho mọi cuộc Nam tiến.
Nhìn vào bản đồ hai nước (trang 16), chúng ta có thể ví Trung Quốc với một cái loa phễu khổng lồ, mà Việt Nam là cái cuống phễu vừa hẹp vừa dài. Hình ảnh cái phễu khổng lồ trên đây có thể giải thích một phần lớn đặc điểm của nền bang giao Hoa-Việt, nếu chúng ta hình dung Trung Hoa như một chất lỏng chứa đựng trong loa phễu, và suốt trong lịch sử lúc nào cũng muốn chảy dọc theo cái cuống phễu để tràn xuống những miền đồng bằng phì nhiêu thuộc Đông Nam Á. Lịch sử đã giao phó cho Việt Nam nằm ở đầu cuống phễu, một trách nhiệm nặng nề: ngăn chặn không cho quân lực Trung Hoa tràn qua để xuống tới các đồng bằng kể trên. Dân tộc Việt Nam đã làm tròn nhiệm vụ ấy, và đã đánh bật trở lại tất cả các cuộc chinh phạt liên tiếp của các triều đại, Hán, Nguyên, Minh, Thanh, đặc biệt nhất là các đoàn kỵ binh hùng hậu của Hốt Tất Liệt mà từ Đông sang Tây không một quốc gia nào kháng cự nổi. Hoàn thành được nhiệm vụ lịch sử kể trên, dân tộc Việt Nam không những đã bảo toàn được nền tự chủ của mình, mà còn giữ cho tất cả các dân tộc khác ở Đông Nam Á khỏi bị Hán hoá.
Theo Hán sử thì ngày xưa, ở phía Nam sông Dương Tử có một trăm bộ lạc, gọi là Bách Việt. Các bộ lạc này đều bị Hán hoá hoàn toàn, bắt đầu từ cuộc chinh phạt của Tần Thuỷ Hoàng, thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch. Theo nhiều học giả chuyên về nhân chủng và phong tục học thì phần lớn các bộ lạc này thuộc chủng tộc Inđônêsia. Dân tộc Việt Nam cũng thuộc về khối này. Theo một truyền thuyết - một truyền thuyết đã trở thành định kiến - nhiều người Việt Nam hiện còn tin rằng tổ tiên của họ ngày xưa cũng là một trong các bộ lạc Bách Việt, nhưng đã may mắn thoát khỏi nạn Hán hoá mà tất cả các bộ lạc khác phải chịu.
Về truyền thuyết này, có một câu chuyện khá lý thú đáng được ghi lại. Sau cuộc Cách mạng Tân Hợi (1911), và sau khi nhường chức Tổng thống cho Viên Thế Khải. Ông Tôn Văn sang viếng thăm Nhật Bản, với tư cách là đảng trưởng Quốc dân Đảng Trung Hoa, và được ông Khuyển Dương Nghị, đảng trưởng Quốc dân Đảng Nhật, thết tiệc khoản đãi. Giữa bữa tiệc, lừa khi ông Tôn Văn bất ý, ông Khuyển Dưỡng Nghị đột nhiên hỏi: “Tôi được biết tiên sinh đã có dịp qua Hà Nội, xin tiên sinh cho biết tôn ý về dân tộc Việt Nam?” Bị hỏi một cách bất thình lình, ông Tôn Văn đáp: “Người Việt Nam vốn nô lệ căn tính. Ngày xưa họ bị chúng tôi đô hộ, ngày nay họ lại bị người Pháp đô hộ. Dân tộc ấy không có tương lai”. Được dịp, ông Khuyển Dưỡng Nghị nói tiếp: “Về điểm này tôi xin phép không đồng ý với tiên sinh. Ngày nay họ thua người Pháp, vì họ thiếu khí giới tối tân, nhưng cứ xét lịch sử thì trong số Bách Việt chỉ có họ là thoát khỏi, không bị Hán hoá. Tôi tin rằng một dân tộc đã biết tự bảo vệ một cách bền bỉ như vậy thì thể nào sớm muộn cũng sẽ lấy lại được quyền tự chủ”. Ông Tôn Văn đỏ mặt không trả lời vì biết mình đã nói hớ. Ông hiểu ý ông Khuyển Dưỡng Nghị muốn châm chọc, cho rằng ông là người Quảng Đông, tổ tiên cũng là “Việt” nhưng kém xa dân tộc Việt Nam vì đã bị đồng hoá hoàn toàn, không còn chút gì là “Việt” nữa. Sau buổi tiệc, ông Khuyển Dưỡng Nghị gọi dây nói mời mấy học sinh Việt Nam tị nạn ở Nhật đến kể chuyện cho nghe tỏ ý hớn hở đã thắng nhà chính khách Trung Hoa trong cuộc đối thoại. Trong số những người được ông Khuyển Dưỡng Nghị mời đến và thuật lại câu chuyện có cụ Lê Dư. Chính cụ Lê Dư đã kể lại câu chuyện này cho tác giả.
Trong hơn hai ngàn năm, dân tộc Việt Nam đã giữ một vai trò y hệt dân Sparte ở ải Thermopile. Công nghiệp của dân tộc Việt Nam đối với các lân bang ở Đông Nam Á chưa được các sử gia công nhận một cách đầy đủ. Có một điểm cần nêu lên là những Hoa kiều hiện nay đang sống đông đảo ở Singapore, Malaysia và Inđônêsia đều tới định cư ở những nơi này bằng đường biển, và mới gần đây. Họ được di cư tới các xứ này một cách dễ dàng vì các chính quyền thực dân Anh, Pháp, Hà Lan thấy họ cần cù và khéo hơn dân bản xứ.
Trở lại hình ảnh cái phễu khổng lồ, chúng ta có thể hình dung dân tộc Việt Nam như một cái nút bông ngăn chặn quân lực Trung Hoa không cho tràn qua, nhưng vẫn để văn hoá Trung Quốc, ví như nước trong, thấm dần qua cái cuống phễu. Dân tộc Việt Nam thấm nhuần nền văn hoá phong phú này và sử dụng nó như một lợi khí để tự bảo vệ, và đồng thời Nam tiến chinh phục Chiêm Thành. Nước này bị xâm chiếm theo kiểu tằm ăn lá dâu và biến khỏi lịch sử năm 1697. Sau khi đã tiến đến miền cực nam của bán đảo Đông Dương, dân tộc Việt Nam bắt đầu vòng quanh dãy núi Trường Sơn để tiến vào nội địa Cam-bốt, nhưng muộn quá, vì người Pháp đã tấn công và chặn lại bắt đầu từ năm 1858. Mặc dầu là nạn nhân của đế quốc Trung Hoa, người Việt đã có tinh thần đế quốc không kém ai, và dân Cam-bốt thực sự đã chịu ơn người Pháp cứu họ khỏi bị Việt hoá, mãnh liệt không kém Hán hoá.
Về ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc, có hai điểm đáng được nêu lên một cách khách quan: đấy là thái độ của thượng lưu trí thức Việt Nam đối với Trung Hoa và nền văn hoá Hán tộc.
Nói chung thì người Việt vẫn coi người Tầu là kẻ thù lịch sử (mười lăm cuộc xâm chiếm trong hai ngàn năm, và một ngàn năm Bắc thuộc), nhưng mỗi khi có nội biến hay ngoại xâm, thường có nhiều người vội vã chạy sang Trung Quốc để khẩn cầu ngoại viện; và mỗi lần như vậy là một lần đại binh mã Trung Quốc kéo sang và ngang nhiên chiếm đóng cho tới khi bị đánh bật ra khỏi.
Gần đây, ông Hồ Chí Minh có nhận viện trợ của ông Mao, nhưng, để bào chữa thái độ của ông, ông nói: “Nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc bao giờ cũng coi nhau như anh em. Chỉ có phong kiến Trung Quốc là kẻ thù của cả hai”, lý luận của ông Hồ rất thông, nhưng giới trí thức kháng chiến thường không chấp nhận. Họ phê bình là nguỵ biện.
Một điểm thứ hai đáng được nêu lên là từ ngàn xưa sĩ phu Việt Nam thường ngưỡng mộ văn hoá Trung Quốc một cách quá mức. Ngay trong thời kỳ tự chủ, các nho sĩ Việt Nam thường học thuộc lòng từng câu, từng chữ, trong các kinh, các sách của các vị “thánh hiền” Trung Quốc mà không hề suy luận, phê phán. Họ sùng bái văn học Trung Quốc đến nỗi họ gọi “chữ Nho” - chữ của người Tầu - là “chữ ta”, mà chính tiếng Việt, họ lại gọi là “tiếng nôm”. Vì quá lệ thuộc vào nền văn hoá Trung Quốc nên ngay trong thời đại tự chủ, Việt Nam vẫn là một chư hầu văn hoá của nước láng giếng phương Bắc. Cũng vì vậy mà số phận Việt Nam bị gắn liền vào số phận Trung Quốc. Cả hai đều bị phá sản trước sự tấn công của các học thuyết Tây phương và Mác-xít.
Để sáng tỏ thêm vấn đề, chúng ta có thể đối chiếu Việt Nam với Nhật Bản. Trước kia cả hai đều là đệ tử của nền văn hoá Trung Quốc, nhưng dù vậy, thái độ của mỗi nước đối với Trung Hoa có khác. Trong khi các sĩ phu Việt Nam coi trọng văn học Trung Quốc như chính của nước mình thì người Nhật, vì là dân đảo quốc, vẫn coi Trung Quốc là ngoại bang và triết học Trung Quốc là một thứ hàng nhập cảng. Vì vậy mà người Nhật duy trì được tinh thần phê phán, có thể lựa chọn và hấp thụ một số học thuyết cũng xuất xứ từ Trung Quốc, nhưng bị Trung Quốc coi là tà thuyết và bác bỏ. Trong số những học thuyết này có học thuyết Lương tri của Vương Dương Minh (1472-1528) mà các triết gia cận đại coi là một giải thích Khổng giáo hướng theo thực tế.
Học thuyết này được truyền sang Nhật vào thế kỷ thứ 17. Chính vì đã hấp thụ được học thuyết Lương tri mà nho sĩ Nhật giữ được một phần nào sáng suốt, không đến nỗi quá hủ lậu như giới Tống nho Trung Quốc và Việt Nam, và do đó, họ dễ dàng công nhận giá trị của kỹ thuật Tây phương. Nhờ sự phản ứng kịp thời của sĩ phu Nhật Bản mà các lãnh chúa Nhật phải thay đổi chính sách, giao thương với Tây phương và thực hiện cuộc cách mạng Minh Trị (1876) tiến đến công cuộc canh tân toàn bộ đời sống.
Cũng nên nhắc lại là cũng vào thời kỳ này, học thuyết Lương tri đã có cơ truyền sang Việt Nam nhưng không thành. Hồi đó một môn đệ của Vương Dương Minh là Chu Chi Dư hiệu là Thuần Thuỷ, trốn khỏi Trung Quốc sau khi Trung Quốc bị Mãn Thanh chiếm đóng, và sang tị nạn ở Hội An. Chúa Hiền biết ông là người hay chữ nên thường mời ông vào cung đàm đạo về văn chương chữ nghĩa. Đấy là một dịp rất tốt cho nhà triết học Trung Hoa truyền bá học thuyết của mình, nhưng điều rất không may là chúa Hiền không đủ học vấn đề nhận định những sai lầm của học thuyết Chu Hy và công nhận những điểm hay của học thuyết Lương tri, và trong khi đó thì các triều thần, thấy chúa coi trọng ông Chu, cũng tìm cách làm thân, nhưng chỉ hỏi ông về lý số. Sau khi trú ngụ trên đất Việt Nam trong mười năm mà không truyền bá được tư tưởng của mình, Chu tiên sinh bèn nghe lời một lái buôn Nhật, lên thuyền của họ di cư sang Nhật. Ông là một trong những người đã có công truyền bá học thuyết Vương Dương Minh trên đất Nhật.
Chỉ vì tôn sùng văn hoá Hán tộc một cách quá đáng mà mãi cho tới khi mất nước hàng chục năm rồi, các nho gia Việt Nam mới nhận thấy Tây phương cũng có một nền văn hoá không kém và đáng được noi theo. Cho đến cuối thế kỷ thứ 19, họ nhất định không chịu quan sát thế giới bên ngoài và không bận tâm đến những phát minh khoa học và kỹ thuật của Tây phương. Trong khi dân tộc Phù tang hối hả canh tân đảo quốc của họ thì vua Tự Đức vẫn điềm nhiên xướng hoạ với mấy vị đại thần. Tám bản “điều trần” của Nguyễn Trường Tộ (1853-1871) lần lượt bị bác bỏ, mà trong khi ấy thì Pháp chiếm Hội An (1858), Nam Việt (1862-1867), Hà Nội (1873-1882) và hoàn thành cuộc đô hộ năm 1884.
Nhìn lại lịch trình tiến hoá của dân tộc Việt Nam chúng ta phải công nhận với sử gia Trần Trọng Kim là sở dĩ Việt Nam giành lại được quyền tự chủ và xây dựng được một cơ cấu xã hội, chính trị, có nền tảng vững chắc, là nhờ ở sự hấp thụ và tiêm nhiễm văn hoá Hán tộc, mà bộ phận chính là Khổng giáo với tinh thần duy lý. Tuy nhiên chúng ta cũng phải nhận định thêm rằng Việt Nam chỉ thực sự phú cường dưới triều đại Lý, Trần, là thời kỳ mà Phật giáo được coi là quốc giáo; và trái lại, Việt Nam bắt đầu suy nhược từ cuối Trần, sau khi Khổng giáo đã chiếm địa vị độc tôn, đánh bật Phật giáo ra ngoài vòng chính trị. Theo thiển ý của tác giả thì có hai nguyên nhân chính. Một là từ Tống trở đi, học phái Chu Hy được coi là học phái chính thống đã đưa Khổng giáo vào một khuôn khổ chật hẹp, hủ lậu và hai là chế độ thi cử dành cho Khổng giáo không đủ sức hấp dẫn để huy động quảng đại quần chúng tham gia kháng chiến. Vì vậy nên những vị anh hùng cứu quốc từ Lê Lợi đến Nguyễn Huệ, đều không phải là những người xuất thân ở cửa Khổng sân Trình. Nói về lịch sử hiện đại thì mất nước với Pháp vào cuối thế kỷ trước, và đất nước tan tành trong hoàn cảnh hiện nay cũng chung một nguyên nhân: Tinh thần nô lệ đối với “Trung Hoa vĩ đại”. Về điểm này sử gia Trần Trọng Kim đã phê bình như sau:
“… Mà sự học của mình thì ai cũng yên trí rằng cái gì đã là của Tầu là hay, là tốt hơn cả: từ tư tưởng cho chí công việc làm, điều gì mình cũng lấy Tầu làm gương. Hễ ai bắt chước được Tầu là giỏi, không bắt chước được là dở”.
Những sự việc trình bày sau đây sẽ chứng minh hậu quả tai hại của tinh thần hướng ngoại kể trên.
Giới thiệu tác giả và tác phẩm
Lời giới thiệu của giáo sư P. J. Honey
Lời tựa của tác giả
Phần 1
Cái vinh và cái nhục của một tiểu nhược quốc
Chương 1 Sứ mạng lịch sử của dân tộc Việt Nam
Chương 2 Việt Nam trong lịch sử hiện đại
Phần 2
Nước mất lại còn
Chương 3 “Bác Hồ”, vị cứu tinh của dân tộc
Chương 4 Cộng sản xuất hiện
Chương 5 Có công mài sắt, có ngày nên kim
Phần 3
Chuẩn bị thành lập chế độ độc tài
Chương 6 Bần cùng hoá toàn dân
Chương 7 “Đấu chính trị”
Chương 8 Danh sách Việt gian
Phần 4
Cải tạo tư tưởng
Chương 9 Công tác tư tưởng
Chương 10 Kiểm thảo
Chương 11 Chỉnh huấn
Chương 12 Năm bài học
Phần 5
Cải cách ruộng đất
Chương 13 Đại cương về cải cách ruộng đất
Chương 14 Chiến dịch giảm tô
Chương 15 Cải cách ruộng đất đích thực
Chương 16 Sửa sai
Chương 17 Chống đối chế độ
Chương 18 Con đường thắng tới cộng sản chủ nghĩa
Giới thiệu tác giả tác phẩm
Các bạn đọc có thể ngạc nhiên khi thấy một cuốn sách tiếng Việt, tác giả là người Việt, mà lại là bản dịch. Trường hợp có hơi bất thường nhưng lý do là tại tác giả, ông Hoàng Văn Chí đã viết nguyên bản bằng tiếng Anh, xuất bản ở ngoại quốc để trực tiếp trình bày vấn đề Việt Nam với độc giả quốc tế và phổ biến kinh nghiệm Việt Nam rộng ra khắp thế giới tự do.
Ông Hoàng, hiện còn bôn ba ở hải ngoại, đã tự giao cho mình trọng trách này vì trước khi rời khỏi Bắc Việt, năm 1955, ông đã hứa với các bạn bè trong hàng ngũ trí thức kháng chiến là ông sẽ cố gắng nói lên tâm trạng đau thương của họ và của toàn thể nhân dân miền Bắc đương quằn quại dưới chế độ cộng sản. Sau mười năm cặm cụi theo đuổi mục đích, ông Hoàng đã hoàn tất một phần lớn nhiệm vụ tinh thần kể trên vì như ông P. J. Honey, giáo sư đại học đường ở Luân Đôn đã công nhận, chính nhờ ở các tác phẩm của ông Hoàng mà thế giới bên ngoài đã biết nhiều về nội tình Bắc Việt và chiến thuật Mao Trạch Đông. Thực sự, không một tác phẩm nào của ông không được phổ biến khắp thế giới tự do, dịch ra năm bảy thứ tiếng, từ tiếng Đan Mạch đến các thổ ngữ Ấn Độ, từ các tiếng Á Đông đến tiếng I-pha-nho ở Nam Mỹ. Hiện nay ông là nhà văn Việt Nam có nhiều độc giả nhất ở ngoại quốc.
Sinh tại Thanh Hoá năm 1913 trong một gia đình Nho giáo có truyền thống cách mạng, ông đã từng tham gia cuộc bãi khoá năm 1926, phong trào “Le Travail” năm 1936, hoạt động trong Đảng Xã hội SFIO năm 1937–39, và tham gia kháng chiến chống Pháp từ đầu đến cuối (1946-54). Ông giúp chính phủ kháng chiến với chức vụ một chuyên viên, phụ trách đúc tiền, làm giấy in bạc, chế tạo hoá chất cho quốc phòng. Nhưng sau Hiệp định Genève, mặc dù đã được ông Hồ Chí Minh tuyên dương công trạng trong toàn quốc, ông quyết tâm rời bỏ Bắc Việt, di cư vào Nam. Trong bốn năm ở Sài Gòn, ông đã để lại nhiều bài báo bằng tiếng Việt, Anh, Pháp, Hoa và đặc biệt là tập truyện ngắn, vừa hài hước vừa chua chát, nhan đề Phật rơi lệ, và một thiên khảo cứu về phong tục học nhan đề Đính chánh một định kiến sai lầm về nguồn gốc dân tộc Việt Nam đăng trong báo Ngày mới xuất bản tại Sài Gòn năm 1958. Vì một sự nhầm lẫn nào đó, bài này đã được dịch ra Anh văn và đăng trong tạp chí Asian Culuture của Hội Liên lạc Văn hoá Á châu, năm 1961, ký tên ông Nguyễn Đăng Thục, Hội trưởng Hội Văn hoá kể trên.
Chúng tôi được quen ông Hoàng Văn Chí hồi chúng tôi nhờ ông đề tựa cuốn Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, do chúng tôi soạn năm 1959. Nhưng chỉ mấy tháng sau, ông tình nguyện đi Ấn Độ, giữ chức phó lãnh sự tại New Delhi. Ra sân bay, ông có tâm sự với chúng tôi là mục đích của ông không phải là làm ngoại giao mà là để có dịp nói lên sự thực của cả hai chế độ: Hồ Chí Minh và Ngô Đình Diệm. Quả nhiên ông chỉ ở Ấn Độ đúng một năm, đủ thì giờ để kết giao với một số nhà báo, nhà văn Ấn Độ. Năm 1960, ông sang Thuỵ Sĩ, sang Anh và lưu trú 5 năm tại Paris, nơi mà ông viết cuốn sách này. Sách đồng thời xuất bản ở Luân Đôn, Nữu Ước, New Delhi, bản dịch tiếng I-pha-nho xuất bản ở Buenos Aires và có nhà xuất bản đã mua bản quyền tiếng Nhật, Triều Tiên, Thái, Mã Lai, v.v. Nhận thấy không lẽ một tác phẩm hoàn toàn bằng tiếng Việt phát hành khắp thế giới mà nhân dân Việt Nam không có dịp thưởng thức, nên chúng tôi yêu cầu tác giả cho phép dịch ra tiếng Việt. Bản dịch này được tác giả duyệt lại, sửa chữa một vài sơ suất trong bản tiếng Anh in tại Luân Đôn và thêm bớt một vài câu cho bớt tính chất văn dịch.
Sau cùng chúng tôi xin lưu ý các bạn đọc về một điểm sau đây: Vì mục đích của cuốn sách là trình bày chiến thuật Mao Trạch Đông áp dụng tại Bắc Việt, hướng về các độc giả ngoại quốc, nên phần nhắc lại lịch sử dân tộc và lịch sử cách mạng Việt Nam chỉ tóm tắt qua loa, vừa đủ để người ngoại quốc chưa hề biết đến nước ta có thể nắm được đại cương vấn đề. Vì tóm tắt nên không thể trình bày đầy đủ chi tiết, do đó độc giả trong nước có thể có cảm tưởng là quá sơ sài và thiếu chính xác. Về điểm này, thay lời tác giả, chúng tôi xin thành thực xin lỗi các bạn đọc.
Mạc Định
Dịch từ nguyên bản tiếng Anh nhan đề: From Colonialism to Communism, xuất bản năm 1964 đồng thời tại: Anh (The Pall Mall Press Ltd. 77–79 Charlotte Street, London W.I.), Hoa Kỳ (F. A. Praeger inc, Publisher III, 4th Ave. New York, N.Y.), Ấn Độ (The Allied Publishers, 13-14 Asaf Road, New Delhi). Cùng với bản tiếng Việt này đã có những bản dịch sau đây: Tiếng Bồ Đào Nha (Nhà xuất bản GRD, Rio de Janeiro, Brésil), tiếng I-pha-nho (Nhà xuất bản Editorial SUR, Buenos Aires, Argentine), tiếng Pháp (Nhà xuất bản MAME, Tours, Pháp).
Lời chú thích của dịch giả
Tất cả các đoạn văn trích trong báo chí Bắc Việt đều là nguyên văn, trừ hai bản báo cáo của Trường Chinh, vì không có nguyên bản tiếng Việt nên tác giả đã dịch ra Anh văn từ bản tiếng Pháp do Bắc Việt xuất bản. Chúng tôi cũng dịch theo bản tiếng Pháp ấy.
Do lời yêu cầu của chúng tôi, cũng như của nhà xuất bản tiếng Pháp và tiếng I-pha-nho, tác giả đã viết lại Chương 18 (Chương cuối) để trình bày thêm về tình hình Bắc Việt từ 1962 đến 1965.
Lời giới thiệu của giáo sư P. J. Honey
Trước Thế chiến thứ Hai, không mấy ai ở thế giới bên ngoại biết đến nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam và hoạ chăng chỉ nghe nói đến Đông Pháp, trong đó có xứ “An Nam”. Ngoại trừ người Pháp, không mấy người Tây phương biết đến Việt Nam là một quốc hiệu, và số du khách có dịp ghé qua Việt Nam lại càng hiếm hơn. Vì vậy, năm 1945, dư luận thế giới rất đỗi ngạc nhiên khi báo chí loan tin có một chính phủ mệnh danh là “Việt Nam Dân chủ Cộng hoà” tuyên bố độc lập đối với Pháp. Nhưng vì đồng thời, việc chấm dứt chiến tranh với Nhật Bản gây nên nhiều biến cố khác, nên dư luận thế giới lại lãng quên vấn đề Việt Nam, cho mãi đến cuối năm 1946, khi chiến tranh bùng nổ giữa Pháp và Việt Nam, báo chí thế giới một lần nữa lại nói đến Việt Nam. Nhưng dư luận hồi ấy cho rằng quân đội Việt Nam thiếu luyện tập và chỉ có những vũ khí thô sơ, nên không thể kháng cự nổi với đội quân viễn chinh hùng hậu của Pháp, và chẳng bao lâu sẽ bị dẹp tan.
Nhưng chiến cuộc mỗi ngày một lan rộng, vì Pháp tỏ ra bất lực không dẹp nổi phong trào kháng chiến Việt Nam, hồi đó thường gọi là Việt Minh. Nhiều người Tây phương, và đặc biệt những người Mỹ quan tâm đến thời cuộc Viễn Đông, cho rằng chiến tranh ở Việt Nam là do những phần tử quốc gia lãnh đạo, với mục đích giành lại độc lập cho quốc gia họ. Hoa Kỳ không trực tiếp can thiệp, nhưng một phần nào, có thiện cảm với Việt Minh. Vì chiến tranh “lạnh” mỗi ngày một bành trướng nên dần dần các quốc gia Tây phương mới thấy rõ âm mưu sâu rộng của cộng sản. Lúc bấy giờ Hoa Kỳ mới ngả theo quan điểm của Pháp, nhận định Việt Minh không phải là một phong trào thuần tuý quốc gia, mà thực sự là một phong trào cộng sản chiến đấu với mục đích thiết lập chế độ cộng sản trên một phần đất Á châu. Vì vậy nên Hoa Kỳ bắt đầu viện trợ mỗi ngày một nhiều cho quân đội Pháp và quân đội Quốc gia Việt Nam mới thành lập. Mặc dù vậy, Việt Minh vẫn thắng trận. Trận Điện Biên Phủ kết thúc chiến cuộc, và hội nghị quốc tế họp ở Genève, đầu năm 1954, mang lại hoà bình ở Việt Nam.
Chiếu theo hiệp định Genève thì Việt Nam bị chia đôi dọc theo vĩ tuyến 17, miền Bắc đặt dưới quyền kiểm soát của cộng sản, và miền Nam vẫn thuộc quyền phe quốc gia. Đây là lần đầu tiên một quốc gia cộng sản xuất hiện ở Đông Nam Á ,và sự kiện này vô cùng quan trọng. Từ ngàn xưa con đường từ Đông Á xuống Đông Nam Á vẫn xuyên qua Việt Nam, và trong lịch sử hiện đại, chính vì Nhật Bản chiếm cứ được miền này năm 1941, nên trong chớp nhoáng Nhật Bản đã thôn tính được toàn thể Đông Nam Á. Không ai không nhìn thấy âm mưu của khối Cộng sản là sử dụng Bắc Việt như một bàn đạp để tràn xuống phía Nam. Hoa Kỳ đã phải rút khỏi nước Lào, và chiến tranh hiện nay đương tiếp diễn tại Nam Việt. Chiến cuộc ở Việt Nam có thể mở đầu cho một cuộc xâm lăng rộng lớn của cộng sản.
Muốn ngăn cản cuộc xâm lăng kể trên một cách hữu hiệu, công việc đầu tiên là phải tìm hiểu chiến lược và chiến thuật của cộng sản thì mới có thể dự đoán được kế hoạch của họ và dự trù biện pháp đối phó. Nhưng vì cộng sản Việt Nam rất ít sáng kiến về quân sự và chính trị, nên thực sự việc ấy không khó khăn như thoạt đầu nhiều người tưởng tượng. Họ chỉ ưa bắt chước và áp dụng những chiến thuật đã được thử thách ở các nước đàn anh. Bác sĩ Nguyễn Ngọc Bích, một nhà học giả Việt Nam rất uyên thâm, đã phê bình cộng sản Việt Nam như sau: “Bất cứ sau một biến cố hay một hành động nào, Việt cộng cũng tổ chức kiểm thảo để tìm ưu khuyết điểm. Mục đích của kiểm thảo là để tránh những sai lầm cũ, không phải để hoạch định kế hoạch cho tương lai. Nhưng vì thiếu sáng kiến nên mỗi lần hoạch định kế hoạch cho tương lai, Việt cộng thường ưa áp dụng những biện pháp đã từng mang lại thắng lợi trong quá khứ. Họ không đủ sáng suốt để nhận định rằng mỗi tình hình mới đòi hỏi một kế hoạch thích ứng và hoàn toàn mới. Chính vì vậy mà Việt cộng thường bị phê bình, mặc dù có đôi khi quá đáng, là chỉ ưa bắt chước và áp dụng những chiến thuật cũ kỹ, không hề sáng tác được chiến thuật nào có thể gọi là mới”.
Chỉ có những lãnh tụ cộng sản mới biết rõ những giai đoạn họ đã vượt qua để lên nắm chính quyền ở Bắc Việt, và cũng chỉ có họ mới biết rõ họ đã trù tính và ấn định mỗi giai đoạn phải như thế nào. Tuy nhiên những người trong hàng ngũ kháng chiến họ có đủ kiến thức và óc quan sát để nhận định những sự việc xảy ra xung quanh họ, phân tích chính sách, đường lối từ trên ban xuống, rất có thể nghiên cứu và trình bày những sự việc đã qua với một độ chính xác rất cao.
Với hoài bão tranh đấu cho nền độc lập của xứ sở, ông Hoàng Văn Chí, tác giả cuốn sách này, đã tham gia kháng chiến ngay từ phút đầu. Mặc dù ông không phải là môn đồ của chủ nghĩa Mác-xít, và ông thừa biết phong trào kháng chiến đã bị Việt cộng lũng đoạn, ông vẫn tích cực tham gia, vì ông cho rằng, nếu những phần tử quốc gia không tham gia kháng chiến sẽ thất bại, và Pháp sẽ có cơ hội đặt lại nền đô hộ trên đất nước Việt Nam. Nhưng sau khi Pháp đã thất bại, ông Hoàng Văn Chí không do dự đứng về phe quốc gia để chống cộng sản.
Trong thời gian kháng chiến, ông Hoàng có điều kiện thuận tiện để nghiên cứu chiến thuật và lập luận của cộng sản. Ông đã chứng kiến việc cán bộ Trung Quốc bắt buộc Bắc Việt phải tuân theo đường lối của họ Mao, và ông đã dự nhiều cuộc đấu tố trong dịp “Cải cách ruộng đất” mà vô số nhân dân Bắc Việt đã bị giết chóc một cách tàn khốc.
Phần lớn những sự việc tường thuật trong cuốn sách này do chính ông Hoàng, nghe tận tai, thấy tận mắt. Phần còn lại là kết quả một công cuộc sưu tầm sâu rộng của ông. Trong suốt cuốn sách, tác giả tường thuật một cách cặn kẽ cộng sản đã lợi dụng và thao túng phong trào ái quốc giành độc lập như thế nào, và đã thành lập chế độ cộng sản ở Bắc Việt như thế nào. Chỉ riêng về phương diện này cuốn sách cũng đã là một công cuộc khảo cứu hết sức quan trọng về chiến thuật hiện đại của cộng sản. Nhưng, hơn nữa, là vì chính những chiến thuật ấy lại đương được áp dụng ở Nam Việt, và rất có thể trong tương lai, ở nhiều nước khác thuộc Đông Nam Á, nên chắc chắn tác phẩm của ông Hoàng sẽ trở thành một cuốn sách giáo khoa mà mọi người có ít nhiều trách nhiệm chống cộng ở Á châu đều cần phải nghiên cứu.
Bằng những tác phẩm Anh văn đã từng xuất bản, ông Hoàng Văn Chí đã cống hiến cho thế giới bên ngoài rất nhiều kiến thức về cộng sản Việt Nam, và gần đây, trong bài báo mới nhất của ông, nhan đề “Sản xuất lúa gạo dưới chế độ nông nghiệp tập thể”, đăng trong tạp chí China Quarterly, số 9, tháng 2 năm 1962, ông đã giải thích tại sao nông nghiệp không những thất bại ở Bắc Cao. Theo thiển ý của tôi thì tác phẩm này sẽ là một trong những tác phẩm tiêu chuẩn về cộng sản Á châu.
P. J. Honey
Giáo sư trường nghiên cứu Á Phi của Luân Đôn đại học đường
Lời tựa của tác giả
Tường thuật giai đoạn cuối cùng của cuộc cách mạng phản đế quốc ở Việt Nam, cuốn sách này chuyên nghiên cứu một chiến thuật thường được mệnh danh là “Cải cách ruộng đất”, một chiến thuật mà các lãnh tụ cộng sản Bắc Việt đã áp dụng để biến cuộc chiến đấu ái quốc giành độc lập thành một công cuộc thiết lập chế độ vô sản chuyên chính. Đấy là một chiến thuật tinh vi, lợi dụng tâm lý quần chúng đến triệt để, có thể coi là phần đóng góp lớn nhất của Mao Trạch Đông đối với lý thuyết Mác-xít-Lê-nin-nít. Theo thiển ý của tác giả thì “Cải cách ruộng đất” là một trong những sáng kiến quan trọng nhất trong lịch sử hiện đại.
Bắt nguồn từ chủ trương căn bản của họ Mao là cách mạng vô sản có thể dùng nông dân làm lực lượng căn bản, “Cải cách ruộng đất” đã được mang ra thử thách lần đầu tiên, dưới một hình thức thô sơ, trong cuộc nông dân bạo động ở Hồ Nam năm 1926. Sau khi cuộc bạo động này thất bại và cộng sản Trung Hoa phải ấn náu ở Diên An, trong hơn mười năm, họ Mao đã nhân đó mà sửa chữa lại đường lối và kiện toàn lại toàn bộ chiến thuật của ông ta. Nhờ vậy mà sau khi nắm được chính quyền ở Trung Hoa lục địa, ông Mao đã tiêu diệt được tất cả các phong trào chống đối, và những thất bại liên tiếp trong các phong trào “nhảy vọt”, hoặc tiến, hoặc thoái, không lay chuyển nối chế độ do ông thành lập.
Chiến thuật “Cải cách ruộng đất” mà ông Mao áp dụng trên toàn thể lãnh thổ Trung Hoa lục địa ngay sau khi Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa được thành lập là dựa theo hoàn cảnh xã hội và tinh thần của nhân dân Trung Hoa. Chỉ vài năm sau là chiến thuật ấy được mang áp dụng ở Bắc Việt, dưới sự lãnh đạo của một số cố vấn Trung cộng.
Nhân sống ở khu Bốn, là miền cộng sản kiểm soát từ đầu đến cuối, tôi được dịp chứng kiến phong trào “Cải cách ruộng đất”, vừa thán phục vừa kinh hoàng.
Trong những trang sau đây tôi cố gắng diễn tả những gì tôi đã thấy - hoặc đôi khi đã tham dự - với mục đích nhỏ mọn là đóng góp chút ít vào công cuộc phát triển khoa học xã hội, và đồng thời cống hiến cho các tác giả ngoại quốc thường viết về Việt Nam hoặc về Á Đông, một vài chi tiết mà từ trước tới nay họ chưa từng biết.
Toàn bộ vấn đề không thể thu gọn trong một cuốn sách nhỏ, nên ở đây tôi chỉ nêu lên một cách hết sức khách quan một vài yếu tố chính của vấn đề Việt Nam. Tôi cũng muốn nhấn mạnh là tôi không định tâm bênh vực hoặc đả phá một lý thuyết hay một chế độ chính trị nào, vì tôi quan niệm tất cả đều lỗi thời. Tôi không có hoài bão nào khác là trình bày đúng đắn những kinh nghiệm xưa và nay của Việt Nam để góp phần xây dựng cho mai hậu, một triết lý hoàn toàn mới, phù hợp với những phát minh mới nhất của khoa học và kỹ thuật hiện đại.
Paris, tháng 6, 1962
Hoàng Văn Chí
Phần 1 - Cái vinh và cái nhục của một tiểu nhược quốc
“Một việc phi thường mà không một sử gia nào có thể giải thích một cách thoả đáng - mặc dầu đã nghiên cứu rất nhiều - là: tại sao, sau hàng ngàn năm đô hộ, dân tộc Việt Nam vẫn không bị đồng hoá, và Việt Nam vẫn còn là một quốc gia biệt lập.”
Joseph Buttinger (The Smaller Dragon)
Joseph Buttinger (The Smaller Dragon)
Chương 1 - Sứ mạng lịch sử của dân tộc Việt Nam
Việt Nam là một phần đất của Á châu. Vị trí địa lý của Việt Nam đối với lục địa Á châu quyết định một phần lớn tiền đồ cũng như sứ mạng mà lịch sử đã giao phó cho dân tộc Việt Nam trong mấy ngàn năm nay.
Chúng ta hãy so sánh Âu châu. Âu châu là một đơn vị địa lý duy nhất, không núi cao, sông không rộng nên trong nội địa Âu châu văn hoá thường được trao đổi và các nòi giống thường được pha trộn một cách tương đối dễ dàng. Địa lý Á châu có một điểm trái ngược với Âu châu. Lục địa Á châu bị dãy núi Hi-ma-lay-a, và tiếp theo là dãy Trường Sơn phân chia thành hai đơn vị địa lý văn hoá riêng biệt. Đơn vị phía Bắc thuộc ảnh hưởng Trung Quốc, đơn vị phía Nam chịu ảnh hưởng Ấn Độ.
Việc phân chia địa lý này có rất nhiều ảnh hưởng. Trong khi một vài tư tưởng và đạo lý có thể truyền bá từ Nam lên Bắc và một vài bộ lạc có thể từ từ di chuyển từ Bắc xuống Nam, qua dẫy Hi-ma-lay-a, dãy núi này vẫn là một “Vạn lý trường thành” chặn đứng không cho bên nào tấn công quân sự bên nào. Chính nhờ vậy mà Ấn Độ và các quốc gia khác thuộc Nam Á đã duy trì được nền văn hoá, tổ chức xã hội và chính trị riêng của họ, không bị văn hoá Hán tộc xâm nhập và không hề bị binh mã của “Thiên triều” quấy nhiễu. Ngay cho tới ngày nay, dãy trường thành này vẫn đóng một vai trò tối quan trọng. Nếu một ngày kia Ấn Độ và Trung cộng có thể thoả thuận công nhận giới tuyến Mac Mahon là biên giới thiên nhiên giữa hai nước, và nếu Hoa Kỳ đủ sức bảo vệ Việt Nam Cộng hoà và duy trì một nền trung lập chân chính ở Lào thì dãy Hi-ma-lay-a-Trường Sơn, chạy dài từ Kashmir ở phía Tây đến Việt Nam ở phía Đông, sẽ là bức bình phong đứng giữa hai khối: khối Cộng sản và khối Không cộng sản trên lục địa Á châu. Chỉ vị kỵ binh của Hán, Nguyên, và Thanh triều không hề vượt qua dãy núi này, vì không vượt nổi, nên nhiều chính khách ở Nam và Đông Nam Á đã nhẹ dạ tin tưởng ở cái mà họ mệnh danh là “tình hữu nghị cổ truyền với Trung Quốc”. Khi họ đề ra thuyết trung lập và sống chung hoà bình, họ đã trông cậy quá nhiều vào dãy núi này coi như một cái mốc che chở cho xứ sở của họ.
Nhưng những biến cố gần đây đã chứng tỏ rằng bức trường thành thiên tạo này không còn hiệu nghiệm như xưa, không chặn nổi sự xâm nhập và cả những cuộc tấn công quân sự của cộng sản. Về phía Tây thì Ấn Độ hiện đương lo phòng thủ biên thuỳ Ấn-Hoa, còn về phía Đông, Hoa Kỳ đương ra sức bảo vệ Việt Nam Cộng hoà và Thái Lan khỏi bị rơi vào tay cộng sản. Nhưng so sánh thì các nước ở phía Đông bị đe doạ nhiều hơn các nước ở phía Tây, vì dãy Trường Sơn phân cách Lào và Việt không cao và hiểm trở bằng dãy Hi-ma-lay-a phân cách Ấn Độ và Tây Tạng. Hơn nữa, Bắc Kinh nối liền với Hà Nội bằng một đường xe lửa, mà trái lại, đường bộ từ Bắc Kinh đến Lhasa, thủ đô Tây Tạng, thì khó khăn, hiểm trở. Vì vậy nên hiện nay cũng như từ ngàn xưa, Trung Quốc vẫn coi Việt Nam là con đường thuận tiện nhất cho mọi cuộc Nam tiến.
Nhìn vào bản đồ hai nước (trang 16), chúng ta có thể ví Trung Quốc với một cái loa phễu khổng lồ, mà Việt Nam là cái cuống phễu vừa hẹp vừa dài. Hình ảnh cái phễu khổng lồ trên đây có thể giải thích một phần lớn đặc điểm của nền bang giao Hoa-Việt, nếu chúng ta hình dung Trung Hoa như một chất lỏng chứa đựng trong loa phễu, và suốt trong lịch sử lúc nào cũng muốn chảy dọc theo cái cuống phễu để tràn xuống những miền đồng bằng phì nhiêu thuộc Đông Nam Á. Lịch sử đã giao phó cho Việt Nam nằm ở đầu cuống phễu, một trách nhiệm nặng nề: ngăn chặn không cho quân lực Trung Hoa tràn qua để xuống tới các đồng bằng kể trên. Dân tộc Việt Nam đã làm tròn nhiệm vụ ấy, và đã đánh bật trở lại tất cả các cuộc chinh phạt liên tiếp của các triều đại, Hán, Nguyên, Minh, Thanh, đặc biệt nhất là các đoàn kỵ binh hùng hậu của Hốt Tất Liệt mà từ Đông sang Tây không một quốc gia nào kháng cự nổi. Hoàn thành được nhiệm vụ lịch sử kể trên, dân tộc Việt Nam không những đã bảo toàn được nền tự chủ của mình, mà còn giữ cho tất cả các dân tộc khác ở Đông Nam Á khỏi bị Hán hoá.
Theo Hán sử thì ngày xưa, ở phía Nam sông Dương Tử có một trăm bộ lạc, gọi là Bách Việt. Các bộ lạc này đều bị Hán hoá hoàn toàn, bắt đầu từ cuộc chinh phạt của Tần Thuỷ Hoàng, thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch. Theo nhiều học giả chuyên về nhân chủng và phong tục học thì phần lớn các bộ lạc này thuộc chủng tộc Inđônêsia. Dân tộc Việt Nam cũng thuộc về khối này. Theo một truyền thuyết - một truyền thuyết đã trở thành định kiến - nhiều người Việt Nam hiện còn tin rằng tổ tiên của họ ngày xưa cũng là một trong các bộ lạc Bách Việt, nhưng đã may mắn thoát khỏi nạn Hán hoá mà tất cả các bộ lạc khác phải chịu.
Về truyền thuyết này, có một câu chuyện khá lý thú đáng được ghi lại. Sau cuộc Cách mạng Tân Hợi (1911), và sau khi nhường chức Tổng thống cho Viên Thế Khải. Ông Tôn Văn sang viếng thăm Nhật Bản, với tư cách là đảng trưởng Quốc dân Đảng Trung Hoa, và được ông Khuyển Dương Nghị, đảng trưởng Quốc dân Đảng Nhật, thết tiệc khoản đãi. Giữa bữa tiệc, lừa khi ông Tôn Văn bất ý, ông Khuyển Dưỡng Nghị đột nhiên hỏi: “Tôi được biết tiên sinh đã có dịp qua Hà Nội, xin tiên sinh cho biết tôn ý về dân tộc Việt Nam?” Bị hỏi một cách bất thình lình, ông Tôn Văn đáp: “Người Việt Nam vốn nô lệ căn tính. Ngày xưa họ bị chúng tôi đô hộ, ngày nay họ lại bị người Pháp đô hộ. Dân tộc ấy không có tương lai”. Được dịp, ông Khuyển Dưỡng Nghị nói tiếp: “Về điểm này tôi xin phép không đồng ý với tiên sinh. Ngày nay họ thua người Pháp, vì họ thiếu khí giới tối tân, nhưng cứ xét lịch sử thì trong số Bách Việt chỉ có họ là thoát khỏi, không bị Hán hoá. Tôi tin rằng một dân tộc đã biết tự bảo vệ một cách bền bỉ như vậy thì thể nào sớm muộn cũng sẽ lấy lại được quyền tự chủ”. Ông Tôn Văn đỏ mặt không trả lời vì biết mình đã nói hớ. Ông hiểu ý ông Khuyển Dưỡng Nghị muốn châm chọc, cho rằng ông là người Quảng Đông, tổ tiên cũng là “Việt” nhưng kém xa dân tộc Việt Nam vì đã bị đồng hoá hoàn toàn, không còn chút gì là “Việt” nữa. Sau buổi tiệc, ông Khuyển Dưỡng Nghị gọi dây nói mời mấy học sinh Việt Nam tị nạn ở Nhật đến kể chuyện cho nghe tỏ ý hớn hở đã thắng nhà chính khách Trung Hoa trong cuộc đối thoại. Trong số những người được ông Khuyển Dưỡng Nghị mời đến và thuật lại câu chuyện có cụ Lê Dư. Chính cụ Lê Dư đã kể lại câu chuyện này cho tác giả.
Trong hơn hai ngàn năm, dân tộc Việt Nam đã giữ một vai trò y hệt dân Sparte ở ải Thermopile. Công nghiệp của dân tộc Việt Nam đối với các lân bang ở Đông Nam Á chưa được các sử gia công nhận một cách đầy đủ. Có một điểm cần nêu lên là những Hoa kiều hiện nay đang sống đông đảo ở Singapore, Malaysia và Inđônêsia đều tới định cư ở những nơi này bằng đường biển, và mới gần đây. Họ được di cư tới các xứ này một cách dễ dàng vì các chính quyền thực dân Anh, Pháp, Hà Lan thấy họ cần cù và khéo hơn dân bản xứ.
Trở lại hình ảnh cái phễu khổng lồ, chúng ta có thể hình dung dân tộc Việt Nam như một cái nút bông ngăn chặn quân lực Trung Hoa không cho tràn qua, nhưng vẫn để văn hoá Trung Quốc, ví như nước trong, thấm dần qua cái cuống phễu. Dân tộc Việt Nam thấm nhuần nền văn hoá phong phú này và sử dụng nó như một lợi khí để tự bảo vệ, và đồng thời Nam tiến chinh phục Chiêm Thành. Nước này bị xâm chiếm theo kiểu tằm ăn lá dâu và biến khỏi lịch sử năm 1697. Sau khi đã tiến đến miền cực nam của bán đảo Đông Dương, dân tộc Việt Nam bắt đầu vòng quanh dãy núi Trường Sơn để tiến vào nội địa Cam-bốt, nhưng muộn quá, vì người Pháp đã tấn công và chặn lại bắt đầu từ năm 1858. Mặc dầu là nạn nhân của đế quốc Trung Hoa, người Việt đã có tinh thần đế quốc không kém ai, và dân Cam-bốt thực sự đã chịu ơn người Pháp cứu họ khỏi bị Việt hoá, mãnh liệt không kém Hán hoá.
Về ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc, có hai điểm đáng được nêu lên một cách khách quan: đấy là thái độ của thượng lưu trí thức Việt Nam đối với Trung Hoa và nền văn hoá Hán tộc.
Nói chung thì người Việt vẫn coi người Tầu là kẻ thù lịch sử (mười lăm cuộc xâm chiếm trong hai ngàn năm, và một ngàn năm Bắc thuộc), nhưng mỗi khi có nội biến hay ngoại xâm, thường có nhiều người vội vã chạy sang Trung Quốc để khẩn cầu ngoại viện; và mỗi lần như vậy là một lần đại binh mã Trung Quốc kéo sang và ngang nhiên chiếm đóng cho tới khi bị đánh bật ra khỏi.
Gần đây, ông Hồ Chí Minh có nhận viện trợ của ông Mao, nhưng, để bào chữa thái độ của ông, ông nói: “Nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc bao giờ cũng coi nhau như anh em. Chỉ có phong kiến Trung Quốc là kẻ thù của cả hai”, lý luận của ông Hồ rất thông, nhưng giới trí thức kháng chiến thường không chấp nhận. Họ phê bình là nguỵ biện.
Một điểm thứ hai đáng được nêu lên là từ ngàn xưa sĩ phu Việt Nam thường ngưỡng mộ văn hoá Trung Quốc một cách quá mức. Ngay trong thời kỳ tự chủ, các nho sĩ Việt Nam thường học thuộc lòng từng câu, từng chữ, trong các kinh, các sách của các vị “thánh hiền” Trung Quốc mà không hề suy luận, phê phán. Họ sùng bái văn học Trung Quốc đến nỗi họ gọi “chữ Nho” - chữ của người Tầu - là “chữ ta”, mà chính tiếng Việt, họ lại gọi là “tiếng nôm”. Vì quá lệ thuộc vào nền văn hoá Trung Quốc nên ngay trong thời đại tự chủ, Việt Nam vẫn là một chư hầu văn hoá của nước láng giếng phương Bắc. Cũng vì vậy mà số phận Việt Nam bị gắn liền vào số phận Trung Quốc. Cả hai đều bị phá sản trước sự tấn công của các học thuyết Tây phương và Mác-xít.
Để sáng tỏ thêm vấn đề, chúng ta có thể đối chiếu Việt Nam với Nhật Bản. Trước kia cả hai đều là đệ tử của nền văn hoá Trung Quốc, nhưng dù vậy, thái độ của mỗi nước đối với Trung Hoa có khác. Trong khi các sĩ phu Việt Nam coi trọng văn học Trung Quốc như chính của nước mình thì người Nhật, vì là dân đảo quốc, vẫn coi Trung Quốc là ngoại bang và triết học Trung Quốc là một thứ hàng nhập cảng. Vì vậy mà người Nhật duy trì được tinh thần phê phán, có thể lựa chọn và hấp thụ một số học thuyết cũng xuất xứ từ Trung Quốc, nhưng bị Trung Quốc coi là tà thuyết và bác bỏ. Trong số những học thuyết này có học thuyết Lương tri của Vương Dương Minh (1472-1528) mà các triết gia cận đại coi là một giải thích Khổng giáo hướng theo thực tế.
Học thuyết này được truyền sang Nhật vào thế kỷ thứ 17. Chính vì đã hấp thụ được học thuyết Lương tri mà nho sĩ Nhật giữ được một phần nào sáng suốt, không đến nỗi quá hủ lậu như giới Tống nho Trung Quốc và Việt Nam, và do đó, họ dễ dàng công nhận giá trị của kỹ thuật Tây phương. Nhờ sự phản ứng kịp thời của sĩ phu Nhật Bản mà các lãnh chúa Nhật phải thay đổi chính sách, giao thương với Tây phương và thực hiện cuộc cách mạng Minh Trị (1876) tiến đến công cuộc canh tân toàn bộ đời sống.
Cũng nên nhắc lại là cũng vào thời kỳ này, học thuyết Lương tri đã có cơ truyền sang Việt Nam nhưng không thành. Hồi đó một môn đệ của Vương Dương Minh là Chu Chi Dư hiệu là Thuần Thuỷ, trốn khỏi Trung Quốc sau khi Trung Quốc bị Mãn Thanh chiếm đóng, và sang tị nạn ở Hội An. Chúa Hiền biết ông là người hay chữ nên thường mời ông vào cung đàm đạo về văn chương chữ nghĩa. Đấy là một dịp rất tốt cho nhà triết học Trung Hoa truyền bá học thuyết của mình, nhưng điều rất không may là chúa Hiền không đủ học vấn đề nhận định những sai lầm của học thuyết Chu Hy và công nhận những điểm hay của học thuyết Lương tri, và trong khi đó thì các triều thần, thấy chúa coi trọng ông Chu, cũng tìm cách làm thân, nhưng chỉ hỏi ông về lý số. Sau khi trú ngụ trên đất Việt Nam trong mười năm mà không truyền bá được tư tưởng của mình, Chu tiên sinh bèn nghe lời một lái buôn Nhật, lên thuyền của họ di cư sang Nhật. Ông là một trong những người đã có công truyền bá học thuyết Vương Dương Minh trên đất Nhật.
Chỉ vì tôn sùng văn hoá Hán tộc một cách quá đáng mà mãi cho tới khi mất nước hàng chục năm rồi, các nho gia Việt Nam mới nhận thấy Tây phương cũng có một nền văn hoá không kém và đáng được noi theo. Cho đến cuối thế kỷ thứ 19, họ nhất định không chịu quan sát thế giới bên ngoài và không bận tâm đến những phát minh khoa học và kỹ thuật của Tây phương. Trong khi dân tộc Phù tang hối hả canh tân đảo quốc của họ thì vua Tự Đức vẫn điềm nhiên xướng hoạ với mấy vị đại thần. Tám bản “điều trần” của Nguyễn Trường Tộ (1853-1871) lần lượt bị bác bỏ, mà trong khi ấy thì Pháp chiếm Hội An (1858), Nam Việt (1862-1867), Hà Nội (1873-1882) và hoàn thành cuộc đô hộ năm 1884.
Nhìn lại lịch trình tiến hoá của dân tộc Việt Nam chúng ta phải công nhận với sử gia Trần Trọng Kim là sở dĩ Việt Nam giành lại được quyền tự chủ và xây dựng được một cơ cấu xã hội, chính trị, có nền tảng vững chắc, là nhờ ở sự hấp thụ và tiêm nhiễm văn hoá Hán tộc, mà bộ phận chính là Khổng giáo với tinh thần duy lý. Tuy nhiên chúng ta cũng phải nhận định thêm rằng Việt Nam chỉ thực sự phú cường dưới triều đại Lý, Trần, là thời kỳ mà Phật giáo được coi là quốc giáo; và trái lại, Việt Nam bắt đầu suy nhược từ cuối Trần, sau khi Khổng giáo đã chiếm địa vị độc tôn, đánh bật Phật giáo ra ngoài vòng chính trị. Theo thiển ý của tác giả thì có hai nguyên nhân chính. Một là từ Tống trở đi, học phái Chu Hy được coi là học phái chính thống đã đưa Khổng giáo vào một khuôn khổ chật hẹp, hủ lậu và hai là chế độ thi cử dành cho Khổng giáo không đủ sức hấp dẫn để huy động quảng đại quần chúng tham gia kháng chiến. Vì vậy nên những vị anh hùng cứu quốc từ Lê Lợi đến Nguyễn Huệ, đều không phải là những người xuất thân ở cửa Khổng sân Trình. Nói về lịch sử hiện đại thì mất nước với Pháp vào cuối thế kỷ trước, và đất nước tan tành trong hoàn cảnh hiện nay cũng chung một nguyên nhân: Tinh thần nô lệ đối với “Trung Hoa vĩ đại”. Về điểm này sử gia Trần Trọng Kim đã phê bình như sau:
“… Mà sự học của mình thì ai cũng yên trí rằng cái gì đã là của Tầu là hay, là tốt hơn cả: từ tư tưởng cho chí công việc làm, điều gì mình cũng lấy Tầu làm gương. Hễ ai bắt chước được Tầu là giỏi, không bắt chước được là dở”.
Những sự việc trình bày sau đây sẽ chứng minh hậu quả tai hại của tinh thần hướng ngoại kể trên.