mardi 8 novembre 2011

Tìm hiểu chủ quyền thác Bản Giốc



http://seablogs.zenfs.com/u/Y4LbZnaGAgJeEJj.L.9dOVia6lJVsQ--/profile/4.jpg
, Trương Nhân Tuấn
-
Thác Bản Giốc thuộc chủ quyền thuộc về nước ta hay Trung Quốc ? Hay là nó nằm trên đường biên giới, bên ta phân nửa, bên TQ phân nửa, như lời ông Lê Công Phụng đã tuyên bố với báo chí trong năm vừa qua?
Với các tài liệu sau đây, xin được chứng minh rằng Thác Bản Giốc hoàn toàn thuộc về Việt Nam.
Bản đồ GGI (Sở địa dư Dông Dương) khu vực Cao Bằng, tỉ lệ 1/50.000.
Thác Bản Giốc ở hướng Ðông Bắc phủ Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, nằm trên sông Qui Xuân (hay Qui Thuận, Quây Sơn). Sông Qui Xuân bắt nguồn từ vùng núi phủ Trấn An (hay Thiên Bảo – Vân Nam), chảy vào Việt Nam – theo các biên bản phân giới Pháp Thanh 1894 – tại ải Lung (cột mốc 81), chảy lại sang Trung Quốc ở khoảng cột mốc số 50 đến 52. Từ cột mốc 50 cho đến cột mốc 52, biên giới hai nước Việt-Trung là đường trung tuyến sông Qui Xuân.
Thác Bản Giốc là một loại thác nước bậc thềm. Theo tài liệu của Cdt Famin viết năm 1894 dẫn phía dưới thì thác cao khoảng 40 thước, theo bản báo cáo của Trung Úy Détrie, ủy viên phân giới 1894 (người phụ trách cắm mốc vùng Bản Giốc), thì thác cao khoảng 50m. Cũng theo ông Détrie, thác nằm ở phía « hạ lưu » mốc 53. Điều này cho thấy thác Bản Giốc ở khoảng giữa hai cột mốc 52 và 53.

1/ Tài liệu dẫn từ Ðại Thanh Hội Ðiển Ðồ và Ðại Thanh Nhứt Thống Chí [1]:

Bản đồ Thái bình phủ, Đại Thanh hội điển đồ.
Tiểu Thiên An có sông Qui Thuận ; sông nầy bắt nguồn ở phía Bắc huyện Qui Thuận, chảy vào huyện nầy ở vùng Tây-Nam, sau đó chảy về hướng Ðông (ÐTHÐÐ, quyển số 125, tờ 4).
Sông Bác Lai Thủy (Poh-lai chouei 駮來水) chảy ở phía Ðông sông Qui Thuận, bắt nguồn trên vùng núi Tây Bắc châu Qui Thuận, chảy theo hướng Tây Nam và chảy vào phía Ðông phủ Thái Bình (sđd, nt).
Sông Long Ðàm Thủy (Long-t’an chouei 龍潭水), chảy cách huyện Qui Thuận 1 dặm về hướng Tây Bắc. Sông này có nguồn từ chân núi, chảy qua vùng Nam châu Qui Thuận, sau đó vào tỉnh Cao Bằng. Sông nầy thuyền bè không lưu thông được (ÐTNTC, quyển số 366, tờ 6). Theo bản đồ của các nhà truyền giáo Jésuites thì Long Ðàm Thủy là một tên khác của sông Qui Thuận Sông nầy cắt xéo ngang phần phía Bắc tỉnh Cao Bằng, chảy vào Việt Nam qua ải Nga Tào (Ngo-tsao 峨漕) và vào lại Trung Hoa qua Ải Canh Biền (Keng-ping 更駢).
Như thế tài liệu này cho chúng ta một khái niệm về sông Qui Thuận (trong đoạn đi vào lãnh thổ Việt Nam. Sông này chảy vào Việt Nam qua ải Nga Tào và chảy ra qua ải Canh Biền.

2/ Tài liệu biên bản phân định biên giới số 3, ký ngày 29-3-1887[2].

Bản đồ đính kèm biên bản phân giới 1887
«Từ điểm A của bản đồ thứ 3 đến điểm B của bản-đồ thứ 3, gần làng An Nam Luong-Bak-Trai ( ?), đường biên giới theo đường trung tuyến Sông sông Qui Xuân.
Từ điểm B của bản-đồ thứ 3 cho đến điểm C của bản-đồ thứ 3, gần làng An-Nam Bảo-Khê, đường biên-giới vẽ một vòng cung mà phần lồi hướng về phía Ðông, để lại cho Trung-Hoa công-sự Ban-Thao-Kha, xuyên qua hẻm núi Ko-Ya-Ai, để lại cho Trung-Hoa công-sự Ko-Ya-Kha và Kaing-Hane-Kha v.v.., bên An-Nam, đoạn sông Date-Dang giữa hai điểm B và C, các làng Luong-Bak-Trai, Loung-Bo-Xa và Pham-Khé v.v.. » (xem hình chụp bản-đồ đính kèm biên-bản phía dưới)
So-sánh với tài-liệu ở phần 1, điểm B tương-ứng với ải Canh-Biền (更[3] 駢) và điểm C tương-ứng với ải Nga-Tào (峨漕). Xem hình chụp dưới đây, từ điểm A đến điểm B, sông Qui-Xuân là đường biên-giới. Từ điểm B đến điểm C, sông Qui-Xuân thuộc Việt-Nam.
Thác Bản-Giốc ở trên đoạn sông AB hay BC ?
Nếu thác ở trên đoạn AB thì thác ở trên đường biên-giới. Việc phân-chia thác này sẽ chiếu theo nội-dung biên-bản : « đường biên-giới là trung-tuyến » của dòng sông. Thác phải chia làm hai. Những cù-lao hay cồn trên sông sẽ thuộc về nước có bờ gần cồn nhất.
Nhưng nếu thác Bản-Giốc ở trên đoạn BC thì thác này hoàn-toàn thuộc về Việt-Nam.
Hình chụp phía dưới là đồ-tuyến biên-giới đính kèm biên-bản phân-định biên-giới 1887. Ta thấy đây là bản-đồ gốc vì có chữ ký của hai phái-đoàn Pháp và Thanh. Ta thấy có chữ ký của ông Dillon, Chủ-Tịch Ủy-Ban Pháp và các ủy-viên là Bouinais và bác-sĩ Néïs. Bản-đồ này là bản-đồ số 3.

3/ Tài-liệu biên-bản phân-giới[4] ký tại Long-Châu ngày 19 tháng 6 năm 1894 giữa Ðại-Tá Galliéni và Commandant Famin, đại-diện chính-phủ Pháp với ông Thái Hy Bân, Tri-Phủ Long-Châu, đại-diện nhà Thanh.

Hình của Dr Péthellaz, đăng trong « Au Tonkin et sur la Frontière du Quang-Si » của Commandant Famin.
Biên-bản tiếng Pháp.
Biên-bản ghi bằng tiếng Hán. Cột 53 tên Bách-Nga Khẩu.
Hai trang cuối ghi sau: « Các cột mốc biên-giới, như vừa thấy, đều mang một con số, từ 1 đến 67 cho đoạn một và từ số 1 cho đến số 140 cho đoạn hai, đã được cắm tại các địa-điểm được chỉ-định ở trên, với sự hiện-diện một ủy-viên Pháp và một viên quan Tàu. Không một cột mốc nào được dời đi kể từ bây giờ mà không có sự ưng-thuận hỗ-tương giữa hai nước. »
Cột mốc số 53, thuộc đoạn thứ hai, được định nghĩa như sau: tên Pan-Ngô (Bách-Nga Khẩu百峨口[5]), cắm tại « bên lề một con đường ở phía Tây-Nam và trên phần nối dài của một khu rừng nhỏ », « au bord du chemin et au SO et sur le prolongement d’un petit bois ».
Cột 51, tên Khau Pang (Canh[6] Bàng Ải 更 旁 隘), cắm tại : Bên bờ trái sông Qui-Xuân (bờ bên Tàu, ghi-chú của tác-giả) ở hạ-lưu một cái cái thác và cách 150m. « Sur la berge du Sung Quei Cheun (rive gauche) à 130 pas en aval d’une cascade ».
Cột 52, tên Khau Canh Ai (Khẩu Canh Ải 口 更[7] 隘), cắm bên bờ sông và cách một trạm canh (ải, tức cửa biên-giới tên Khẩu-Canh) 5 bước. « Sur la berge et à 5 pas en avant du poste ».
Ta thấy phần mô-tả vị-trí cột mốc 51 có đề-cập đến một cái thác và thác này ở phía hạ-lưu cột 51. Thác này nhỏ, chỉ cao khoảng 1m, không phải thác Bản-Giốc. Sông Qui-Xuân, như mô-tả phần-trên, có nhiều ghềnh-thác, thuyền bè không lưu-thông được. Cột 51 mang tên Canh-Bàng Ải 更 旁 隘. Xem lại phần 2 ở trên, điểm B tương-ứng với Canh-Biền Ải 更 駢隘. Rất có thể Canh-Biền Ải chính là Canh-Bàng Ải vì trùng-hợp ở chữ Canh 更 và cách phát-âm của hai chữ Biền và Bàng. Hơn nữa, hai tên chỉ định cho hai nơi rất gần nhau. Nếu giả-thuyết này đúng thì đường trung-tuyến sông Qui-Xuân chỉ là biên-giới hai nước từ cột 50 đến cột 51. Như thế thác Bản-Giốc ở phía thượng-lưu, nằm trong đoạn BC, nên hoàn-toàn thuộc về Việt-Nam[8].
Xem hình chụp 2 trang biên-bản phân-giới ở dưới có ghi các cột mốc liên-quan, một tiếng Hán và một tiếng Pháp.
Các cột mốc, tùy theo vùng, được làm bằng đá đẽo, bằng xi-măng đúc hay bằng đá tảng tự-nhiên có sẵn trên thực-địa. Cột mốc vùng Quảng-Tây được ghi-nhận như hình dưới đây. Ta thấy trên mốc có khắc một số chữ. Hàng dọc bên phải ghi là « Trung-Quốc Quảng-Tây Giới 中 國 廣 西 界 ». Phía phải, ở trên, ghi chữ Pháp « Frontière Sino-Annamite ». Ở giữa ghi số cột mốc và phía phải, hàng dưới, ghi tên cột mốc.

4/ Tài-Liệu Au Tonkin et sur la frontière du Kwang-si[9], Par le Commandant Famin, Vice-Président de la Commission d’Abornement des Frontières Sino-Annamites en 1894.

Paris, Auguste Challamel, Editeur, Librairie Coloniale, 1895 (Trang 12-13; 142,143). Tonkin và trên vùng biên-giới Quảng-Tây, của Cdt Famin, Phó Chủ-Tịch Ủy-Ban Phân-Giới năm 1884. Ông này đảm-trách phần phân-giới dưới quyền Ðại-Tá Galliéni, kết-thúc việc phân-giới vùng Quảng-Tây trong chiến-dịch 1893-1894 mà nhiều chiến-dịch khác từ những năm trước do các ông Servière, Flandin… đã không thành-công.
Trang 12-13: Xác-nhận thác Bản-Giốc thuộc Việt-Nam:
« Trên vùng phía Bắc (vùng II Quân-Sự), sông Qui-Thuận chảy qua Trùng-Khánh Phủ. Ðây là một phụ lưu của sông Tây-Giang (Si-Kiang). Có chiều rộng khoảng 60 thước, chảy vào Tonkin qua cửa Ải Lung và chảy vào lại đất Tàu ở gần công-sự Tàu, có tên Nam-Ton, sau khi đã tưới một thung-lũng rộng lớn và rất trù-mật. Hai cây số trước khi rời khỏi đất Tonkin, sông này chảy xuống một bậc đá và tạo thành một cái thác tuyệt-đẹp cao khoảng 40 thước. Từng cột nước khổng-lồ, trước hết rơi xuống vang rền trên một trũng nước, sau đó dội ngược lên thành những chùm tua đầy bọt nước, chảy trên những bậc thềm đá bóng láng. Vào mùa mưa, thác nầy mang một hình-thái tuyệt-trần, tiếng động của nó âm vang ra tận ngoài thật xa, dội vào vách núi đá nghe như là sấm động, trong lúc những đám mây hơi nước được tạo thành ở các bên bờ tan ra tạo thành một đám mưa lâm-râm thật sự.
Con sông này có một phụ-lưu, là con suối Bản-Tước. Suối chảy dọc theo con đường từ Hà-Lang đến Trùng-Khánh Phủ. Trước khi tới công-sự ghi trên không lâu, con đuờng và dòng suối đi vào một hang động, song song nhau trong khoảng 300 thước, dưới một vòm đá, có lúc khá cao. Con đường ra khỏi hang bằng những bậc thềm tạo thành một cầu thang, đẽo vào đường rãnh của một tảng núi đá (cheminée) hầu như thẳng đứng, trong lúc dòng suối thì chảy khuất vào trong đá và chỉ lộ ra khá xa trong đồng-bằng. »

5/ Tài-liệu: Nhật-Ký[10] của Trung-Úy Détrie về đoạn biên-giới từ Lũng-Ban đến Ðèo-Lương, nhân-dịp đảm-nhận việc cắm mốc. (28 tháng 6 năm 1894) :

Hình trên : đoàn quân qua sông, dưới thác Bản-Giốc.
Tài-liệu này xác-định vị-trí của cột mốc 53 và thác Bản-Giốc :
« Après la porte de Dốc-Khánh la frontière est tracée à l’intérieur du massif rocheux, laissant au Tonkin de petit cirques peu importants débouchant dans Lung-Piac, près les deux cirques difficilement accessibles de Lung-Deng et Lung-Moi que traversent les chemins conduisant à Thin-Thang par Ai-Thin-Thap (56) et Lung-Moi (55) jusqu’à l’abornement, les habitants de Lung-Deng et Lung-Moi payaient l’impôt aux Chinois. La frontière regagne ensuite le pied des rochers en face du village de Ban-Mong (54) longe le pied de ces rochers et au pied du blockhaus chinois de Pia-Mu, suit la lisière d’un petit bois et coupe le chemin de Hang-Dong-Quan (53) pour atteindre la rivière qu’elle suivra jusqu’à Ly-Ban. Le chemin qui de la borne 53 conduit à Dốc-Khánh (57) à travers de très belles rizières devra être l’objet d’une surveillance constante.
A partir de la belle cascade de 50m qui se trouve un peu en aval de la borne 53, le sông Qui-Xuân coule resserré entre des mamelons élevés ».
Bắt đầu từ cái thác nước đẹp, cao 50 thước, ở phía hạ-lưu (aval) của cột mốc số 53, sông Qui-Xuân chảy hẹp lại ở giữa những ngọn đồi cao. »
Ta thấy ông Détrie mô-tả đường biên-giới từ Tây sang Đông trong khi các cột mốc trong vùng này được cắm từ Đông sang Tây. Như biên-bản phân-giới mô-tả, cột mốc 53 được cắm ở bên lề con đường.
Ta thấy ghi-chú trong hình dưới, đoàn quân « tirailleurs tonkinois » qua sông (passage du gué) từ phía tả-ngạn sang phía hữu-ngạn. Đây là một yếu tố quan-trọng cho thấy hai bờ con sông đều thuộc Việt-Nam. Đơn-giản vì theo các công-ước, quân-đội hai bên không được đi qua lãnh-thổ nước bạn.
Bên kia thác ta không thấy con đường (đi Hang-Dong-Quan) có cắm mốc số 53 như Trung-Úy Détrie mô-tả. Hình-thái núi-non hiểm trở phía bên kia cũng như phía thượng-lưu sông cho thấy không thể có con đường qua đây được. Nhưng rất có thể con đường đi dọc theo sông, đoàn quân trong hình theo con đường này, gần đến thác, qua sông. Riêng con đường, vì núi chận, phải đi vòng sau núi. Vì thế cột mốc 53 chỉ có thể ở phía hạ-lưu thác Bản-Giốc.
Theo các lý-luận này thác Bản-Giốc hoàn-toàn thuộc về Việt-Nam.

6/ Tài-liệu Bulletin du service Géologique de l’Indochine

Volume XI, Fascicule I, Etudes Géologiques sur le Nord-Est Du Tonkin,[11] (Feuilles de Bảo-Lạc, Cao-Bằng, Hà-Lang, Bắc-Kạn, Thất-Khê và Long-Châu), Réné Bourrret; Ha-Noi – Hải-Phòng Imprimerie d’Extrême d’Orient – 1922. (trang 32-33-34).

Hình trên : cầu chữ Z bắt qua sông Qui-Xuân, gần thác Bản-Giốc.
Xác nhận thác Bản-Giốc của Việt-Nam:
« Sông Qui-Xuân theo hướng Ðông-Bắc trong vùng núi nầy, chảy ở giữa hai tường đá rất cao. Bờ tả-ngạn, có chung phong-thái với Phong-Nam, chỉ là sự nối dài từ bên Tàu. Nhiều bằng-chứng đá vôi, được đẽo thành đỉnh nhọn cao thấp đủ cỡ, rải-rác khắp nơi trong thung-lũng.
Vùng này con sông Qui-Xuân chảy qua gần ở Chi-Choi. Sông này sau khi ra khỏi vùng đá vôi Phong-Nam, mở rộng phía dưới hạ-lưu thung-lũng của nó. Tại đây dân bản xứ tưới nước rất nhiều bằng hệ-thống tưới bằng ống tre. Con sông này mở một con đường ngoằn-ngoèo trong vùng phía Ðông của phủ Trùng-Khánh và chảy xuống hết ghềnh thác nầy qua ghềnh thác khác để đến biên-giới Ðông-Bắc, kế-cận Bản-Giốc, trước khi chảy qua vùng đồi Bồng-Sơn. Công-sự Bản-Giốc, hiện nay bỏ trống, cheo-leo trên một núi đá cao khoảng 30 thước, nhìn xuống những ghềnh thác của con sông và vùng đồng-bằng rất đông-đảo dân-cư, với những tường cao bao quanh. Ðây là một trong những vùng đẹp nhất của Tonkin, nếu không vì xa-xôi và vì khó-khăn phương-tiện lưu-thông, nó rất xứng-đáng để du-khách đến thăm-viếng với những hang-động, những cây cầu hình chữ Z bắt lên những tảng đá để băng qua sông, và nhất là cái thác hùng-vĩ, gọi là thác bậc-thềm có tên Tụ-Tổng, được người Châu-Âu biết nhiều qua tên Thác Bản-Giốc ».

7/ Tài-liệu của CSVN, “Vấn đề Biên giới giữa Viet Nam và Trung Quốc”[12] do NXB Sự Thật – Hà Nội ấn hành năm 1979 xác-nhận thác Bản-Giốc của Việt-Nam.

8/ Khảo-sát tấm hình gọi là hình chụp cột mốc 53:

Tấm hình trên, cùng với tấm hình chụp không ảnh vùng sông Qui-Xuân ở dưới, được loan-truyền trên các diễn-đàn internet. Những người gởi hình cho rằng Tàu có 1/2 chủ quyền thác Bản-Giốc. Những người này dựa vào hai tấm hình để cho rằng thác Bản-Giốc ở trên đường biên-giới.
Điều này không có gì chứng-minh.
Ta thấy « cột mốc » trong hình chưa chắc là cột mốc cắm theo công-ước 1887. Trên « mốc » này có ghi : 中 trung 國 quốc 廣 quảng 西 tây 界 giới và dòng chữ trắng ghi thêm trên hình 攝 nhiếp 季 quý 志 chí 乾 kiền. Rõ-ràng, « cột mốc » này do người Tàu chụp và ghi hàng chữ trắng vào. So-sánh với cột mốc mẫu của Dr Pethellaz hình ở trên, có nhiều chi-tiết thiếu-sót, đó là : hàng chữ Pháp « Frontière Sino-Annamite », số cột mốc và tên cột mốc. Chỉ có hàng chữ Trung-Quốc Quảng-Tây Giới là phù-hợp. Ta cũng thấy trên « mốc », có nơi dường như bị mài, xóa.
Bấy nhiêu khuyết-điểm đó cho thấy « cột mốc » trong hình, nếu nó là mốc nguyên thủy, cũng bị mất giá-trị pháp-lý.
Tấm hình chụp không-ảnh phía dưới cũng thế, cho thấy đại-khái sông Qui-Xuân, đoạn chảy vào Việt-Nam. Nó cũng không xác định được chủ-quyền của thác Bản-Giốc.
Vì khi nói đến chủ-quyền là phải trưng bằng chứng pháp-lý (như các biên bản phân giới, biên bản cắm mốc, bản đồ đính kèm, hoạc các tài liệu do nhà nước công bố… đã dẫn trong bài viết) . Cột mốc trong hình trên, giả-sử nó là cột 53, rõ ràng thấy dấu vết xóa, mài. Về vị trí thì lại không phù hợp với biên bản cắm mốc. Vì vậy nó không hề có giá trị pháp-lý hay lịch sử.
Bản đồ Google khu vực sông Qui Xuân – Cao Bằng

9/ Khảo-sát bản-đồ 186C[13] :

Bản đồ GGI (Sở địa dư Dông Dương) khu vực Cao Bằng, tỉ lệ 1/50.000.
Trên bản-đồ ta thấy ghi cột mốc 53, trên cồn ở giữa sông.
Xét lại lời bài phỏng-vấn Thứ trưởng Ngoại giao Lê Công Phụng dành cho phóng viên VASC Orient trong chiều 28/1/2002 :
- Thưa ông, có một chi tiết mà rất nhiều người nói đến, người ta nói đến thác Bản Giốc, mục Nam Quan. Thưa ông, ở trong đó có cái gì là sự thật và có cái gì thực ra chỉ là sự phóng đại mang màu sắc cảm tính là nhiều?
- Về thác Bản Giốc, thì đây là điều rất phức tạp. Chúng tôi cũng rất lạ là trong sách sử của chúng ta và Trung Quốc từ năm 1960 đến nay, không ai nói thác Bản Giốc có phần là của Trung Quốc. Ngay Trung Quốc cũng không nói đấy là của Trung Quốc. Còn đối với chúng ta, thác này đã đi vào sử sách, nhất là sách giáo khoa của học sinh, thành di tích, điểm du lịch được nhiều người ưa chuộng.
Đây là điều mà chúng tôi rất khó hiểu, bởi lẽ trong công ước giữa nhà Thanh và Pháp, thác Bản Giốc chỉ thuộc về chúng ta có 1/3 thôi; và theo thực trạng cột mốc được cắm từ thời nhà Thanh, thì chúng ta cũng chỉ được 1/3 thác.
- Tức là cột mốc đang tồn tại đã được cắm từ thời Thanh?
- Đúng vậy. Cột mốc đang tồn tại đã được cắm từ thời Thanh, xác định chỉ có chưa được một nửa thác Bản Giốc là ở bên phía ta. Theo quy định quốc tế, khi phân giới cắm mốc thì thác được coi như 1 dòng sông, 1 dòng suối. Đã là sông suối thì đường biên giới đi qua luồng chính, tức là chỗ tàu thuyền đi lại được. Còn đối với sông suối nơi tàu thuyền không đi lại được, thì đường biên giới phải đi theo rãnh sâu nhất.
- Chẳng nhẽ tất cả các khách du lịch, trong đó có những người có trách nhiệm, đi thăm thác Bản Giốc mà không phát hiện ra cột mốc nằm đó hay sao?
- Cột mốc không nằm sát Bản Giốc. Khi chúng tôi khảo sát thì mới thấy cột mốc nằm trên một cồn nhỏ ở giữa suối, cách đấy khoảng mấy trăm mét. Vì vậy nên cũng không mấy ai quan tâm đến cột mốc ở thác Bản Giốc.
Trước tình hình như vậy, chúng tôi nghĩ rằng trong đàm phán phải hợp lý, thỏa đáng phù hợp với mặt pháp lý. Chúng ta phải căn cứ vào những thỏa thuận pháp lý Thanh – Pháp, căn cứ vào biểu đồ, căn cứ vào cột mốc hiện có mà dân địa phương nói là cột mốc đó từ xưa đến nay chưa ai thay đổi cả. Cuối cùng, lãnh đạo chúng ta cũng nhất trí trong tất cả các điều kiện ấy, không thể đòi hỏi thác Bản Giốc phải là của chúng ta hoàn toàn được.
Lẽ ra theo thực tiễn thì chúng ta chỉ được 1/3. Nhưng sau đàm phán, chúng ta và bạn đã thỏa thuận thác Bản Giốc được chia đôi, mỗi bên được 50%. Hiện nay cả 2 bên đang tiến hành khai thác du lịch phía bên mình.
Ở chỗ này, nếu nói chúng ta bán đất thì hoàn toàn vô lý. Pháp lý lẫn thực tiễn đều không cho phép chúng ta giữ chủ quyền trên toàn bộ thác Bản Giốc.
Ta thấy lời tuyên-bố của Lê Công Phụng phù-hợp với bản-đồ 186C : cột mốc 53 ở trên cồn, giữa suối.
Như thế, ai đã đem cột 53 từ trên đường xuống « cồn nhỏ ỏ giữa suối » ?
Ông Phụng nói rằng kết tội CSVN bán thác Bản-Giốc là vô lý. Nhưng vấn-đề đặt ra : Ai đã đem cột mốc 53 từ trên đường xuống cồn ? Nếu ông Lê Công Phụng muốn chứng-minh CSVN không bán nước thì phải đưa ra bằng-chứng xác-nhận cột mốc 53 ở trên cồn giữa suối. Nhưng làm việc này còn khó hơn lên trời, vì ông Phụng làm sao thay đi nội-dung công-ước 1887 ?

10/ Kết-Luận:

Từ các tài-liệu trên đây, tài-liệu 1 lấy từ sử Tàu và tài-liệu 2 phân-định biên-giới năm 1887 cho ta một cái nhìn tổng-quát, một khái-niệm về sự hiện-hữu của một đường biên-giới Việt-Trung. Tài liệu 4 lấy từ quyển sách của Commandant Famin, người trực-tiếp điều-khiển việc cắm mốc vùng Quảng-Tây vào năm 1894, là người chỉ-huy của Trung-Úy Détrie mà nhật-ký về việc cắm mốc của ông nầy cũng được ghi lại vào phần 5. Ở hai trang 12 và 13 sách này ông đã diễn-tả tỉ-mỉ một các thác nước bậc thềm, cao khoảng 40 thước hoàn-toàn phù-hợp với thác Bản-Giốc hiện nay. Thác nầy hoàn-toàn thuộc Việt-Nam và cách biên-giới hai cây số.
Tài-liệu thứ 5 là nhật-ký của Trung-Úy Détrie, người trực tiếp cắm mốc.
Theo ông Détrie thì các thác nước tuyệt-đẹp cao 50 thước thì ở phía hạ-lưu của cột mốc 53. Các cột mốc 50, 51, 52 dọc theo sông Qui-Xuân, đoạn này biên-giới là dòng sông. Nếu thác ở trên đường biên-giới thì chủ-quyền của thác sẽ theo qui-ước đã ghi trong các công-ước đã-ký. Vấn-đề là “thác nước ở tại hạ-lưu cột mốc 53”, thì nó ở chỗ nào? Cột mốc 53 được hiểu qua đoạn: “La frontière regagne ensuite le pied des rochers en face du village de Ban-Mong (54) longe le pied de ces rochers et au pied du blockhaus chinois de Pia-Mu, suit la lisière d’un petit bois et coupe le chemin de Hang-Dong-Quan (53) pour atteindre la rivière qu’elle suivra jusqu’à Ly-Ban. Le chemin qui de la borne 53 conduit à Dốc-Khánh (57) à travers de très belles rizières devra être l’objet d’une surveillance constante”
Cột mốc 53, theo đoạn văn thì nằm trên con đường dẫn đến Dốc-Khánh và không nằm trên sông. Nếu không nằm trên dòng sông thì làm sao nói nó ở « hạ-lưu » hay « thượng-lưu » ?
Vị-trí của cột 53 sẽ rõ-rệt nếu ta xem lại tài-liệu 5. Biên-bản cắm mốc-giới cho thấy rõ ràng cột mốc 53 không nằm trên dòng sông, mà ở lề một con đường, trên phần nối dài của khu rừng nhỏ. Theo tấm hình chụp « đoàn quân qua sông » cũng ở phần 5, ta không thấy con đường mà trên đó Trung-Úy Détrie xác-nhận cột 53 được cắm. Vì hình-thái địa-lý, con đường này chỉ có thể đi song song với sông và ở hạ-lưu thác Bản-Giốc, sau đó đánh vòng qua sau núi như được mô-tả trong phần 5 và phần 6.
Tài-liệu 6 của sở Ðịa-Chất Ðông-Dương năm 1922. Tài-liệu này trình-bày một cách rõ-rệt là thác Bản-Giốc, có tên khác là thác Tu-Tong, là « một trong những vùng xinh đẹp nhất của Bắc-Việt ». Tài-liệu còn mô-tả khung-cảnh chung-quanh một cách rõ-ràng: « Ðây là một trong những vùng đẹp nhất của Tonkin, nếu không vì xa-xôi và vì khó-khăn phương-tiện lưu-thông, nó rất xứng-đáng để du-khách đến thăm-viếng với những hang-động, những cây cầu hình chữ Z bắt lên những tảng đá để băng qua sông, và nhất là cái thác hùng-vĩ, gọi là thác bậc-thềm có tên « Tu-Tong », được người Châu-Âu biết nhiều qua tên Thác Bản-Giốc ».
Những tài-liệu trên cho phép ta kết-luận rằng vùng thác Bản-Giốc có một tiềm-năng rất lớn về kỹ-nghệ du-lịch và nó hoàn-toàn thuộc Việt-Nam.
[1] Dévéria, Histoire des Relations de la Chine avec l’Annam du XVI au XIX siècle. Tài-liệu CAOM. AOM, cote 1134/ 13.
[2] Hồ-sơ phân-định biên-giới 1886-1894 : Cartons : 65353, 65354, 65355, 65356, 65357, 65358, 65359, 65360. Indo, GGI.
[3] Có bộ « sơn » trên chữ Canh.
[4] Như ghi-chứ 2.
[5] Có bộ « khẩu » trước chữ Bách.
[6] Như ghi-chú 2.
[7] Idem.
[8] Khảo-sát toàn-bộ hồ-sơ phân-định biên-giới 1886-1897, đặc-biệt bản nhật-ký phân-giới 1894 của Đại-Tá Servière và Đại-Tá Galliéni, ta thấy rất có thể các cột mốc 52 và 53 đã bị dời chỗ vì vị-trí của nó không phù-hợp với biên-bản đoạn thứ 3 ký ngày 29 tháng 3 năm 1887.
[9] Famin, Au Tonkin et sur la frontière du Quang-Si. Tài-liệu CAOM. SOM, cote C 43
[10] Như ghi-chú 2.
[11] CAOM.
[12] Tài-liệu này do ông Thái Văn Cầu ở Hoa-Kỳ gởi tặng. Tác-giả trân-trọng cám-ơn.
[13] Do ông Nguyễn Ngọc Giao công-bố. Theo ông này thì bản-đồ 186C là bản-đồ chính-thức của Hiệp-Ước Biên-Giới tháng 12 năm 1999.