Ph III - Về việc đảng Cộng-sản Việt-Nam, Lãnh đạo nhà nước
cắt lãnh thổ, lãnh hải cho Trung-quốc
Ngày 10-11-2001
cắt lãnh thổ, lãnh hải cho Trung-quốc
Ngày 10-11-2001
Bí ẩn về việc đảng Cộng-sản lãnh đạo
nhà nước Việt-Nam nhượng lãnh thổ,
lãnh hải cho Trung-quốc.
nhà nước Việt-Nam nhượng lãnh thổ,
lãnh hải cho Trung-quốc.
Giáo-sư Trần Đại-Sỹ
... (tiếp theo)
Ghi chú đặc biệt của Trần Đại-Sỹ
Sau khi bài lày lộ ra, có 71 bài nghiên cứu cãi nhau về cái tên Nam-quan, xếp bắt tôi phải im lặng, mặc cho họ cãi nhau, kệ họ là thầy bói xem voi. Người thì bảo Nam-quan của Trung-quốc, kẻ thì bảo của Việt-Nam. Rồi họ cãi nhau lung tung về vị trí đích thực của Nam-quan.
Tháng 8-2002 nhân tôi sang Hoa-kỳ (California) thăm thân hữu, bị mấy nữ ký giả truyền hình quay như chong chóng, tôi đã buột miệng nói ra, thôi thì sự đã rồi, bây giờ tôi xin trình bầy ở đây (tôi vốn yếu bóng vía trước các người đẹp).
Có tất cả có 5 "Nam-quan".
Hình ải Nam-quan 1558-1885.
Vua Gia-Tĩnh, triều Minh ban chỉ kiến tạo năm 1558, mang tên Trấn Nam-quan, nhưng thường gọi bằng danh tự Nam-quan. Trấn Này nằm giữa hai ngọn núi nhỏ, chặn ngang đường từ Lạng-sơn đi Ung-châu (Nam-ninh). Nằm về phía Nam trấn này 2 dặm là ải Phả-lũy của Việt-Nam. Biên giới Hoa-Việt được kể từ chân ải Nam-quan. Tháng 6 năm Đinh Hợi 1406, tại phía Nam ải này có cuộc tiễn đưa lịch sử giữa Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi, rồi có suối Phi-Khanh.
Năm 1884, triều đình Nguyễn ký hiệp ước chịu sự bảo hộ của Pháp. Thiếu-tướng Francois Oscar De Négrier được cử làm tư lệnh vùng biên giới phía Đông của Hoa-Việt. Trong lúc giao thời Pháp-Việt, ải Phả-lũy bỏ không. Quân Thanh tràn sang phá ải, rồi cướp phá vùng Đồng-đăng. Ngày 24 tháng 3 năm 1884, Thiếu-tướng De Négrier tổ chức cuộc hành quân đánh đuổi quân Thanh. Quân Thanh đại bại, Tổng-binh Sầm Quang Anh bị giết. Ngày đầu năm 1985, Tổng-binh Nùng Mặc Sơn, đem một trung đoàn Thanh tấn công, chiếm đồn Phả-lũy rồi tràn vào Lạng-sơn cướp phá. Tướng De Négrier đem 3 tiểu đoàn (2 tiểu đoàn Pháo-thủ, một Tiểu-đoàn bộ binh thuộc địa), đánh đuổi quân Thanh, giết Nùng Mặc Sơn. Ngày 5-1-1885, chiếm ải Nam-quan, đặt chất nổ san bằng.
Sau khi thỏa ước Pháp-Thanh ký, Nam-quan được xây lại bằng ngân sách của chính phủ Đông-dương và Thanh-triều. Ải xây bằng đá mài, mái cong rất đẹp. Trong ải một nửa thuộc Pháp, một nửa thuộc Thanh. Mỗi bên đều có cơ quan Cảnh-sát, lính biên phòng, quan thuế. Tiền tu bổ hằng năm, do ngân sách tỉnh Quảng-Tây và Lạng-sơn đài thọ.
Biên giới Hoa-Việt được kể từ giữa ải: Nam của Việt, Bắc của Hoa. Thời gian này VN soạn thảo sách giáo khoa Việt-ngữ, bởi vậy mới có câu:
"Nước Việt-Nam dình chữ S chạy từ ải Nam-quan đến mũi Cà-mâu"
Trong chiến tranh Quốc-Cộng 1949, ải này bị phá hủy.
Hồi chiến tranh Việt-Pháp (1946-2001), sau chiến dịch Cao-Bắc-Lạng, Chủ-tịch đảng Cộng-sản Việt-Nam là Hồ Chí Minh sang Trung-quốc cầu viện với Chủ-tịch đảng Cộng-sản Trung-quốc. Hai bên thỏa thuận bằng những hiệp ước mật. Trung-quốc cho xây Mục Nam-quan, lùi vào lãnh địa Việt-Nam. Hình trên, không thấy hai ngọn núi và suối Phi-Khanh đâu. Mục đích việc lùi biên giới này như sau: Vùng phía Bắc Mục Nam-quan tuy là lãnh thổ Việt-Nam, nhưng bây giờ là của Trung-quốc. Như vậy Pháp không dám dùng không quân oanh tạc. Đó là vùng an ninh để Hồng-quân lập các trung tâm huấn luyện quân Việt-Minh. Sau chiến tranh (1954) Trung-quốc giữ luôn. Trong chiến tranh 1960-1975, không quân Hoa-kỳ cũng ê càng không dám oanh tạc khu này.
NAM-QUAN THỨ TƯ, (1952-1979)
Phía Nam Mục Nam-quan mấy trăm thước, chính phủ Việt-Nam Dân-chủ Cộng-hòa cũng cho xây một cửa ải nữa, mang tên cửa Hữu-nghị. Tại đây có đầy đủ các cơ quan như: Công-an biên phòng, Hải-quan, Bưu-điện v.v. Trong chiến tranh 1979, Trung-quốc san bằng cái cửa Hữu-nghị này. Chúng tôi không còn lưu trữ được hình ảnh.
Sau chiến tranh, VN cho xây lại một cữa Hữu-nghị khác. Nhưng từ khi ký hiệp định 1999, thì cái Hữu-nghị này phá bỏ. ViệtNam xây cửa Hữu-nghị mới lùi lại sau mấy trăm thước nữa.
NAM-QUAN THỨ NĂM (2001- ?).
Ảnh chụp tháng 8-2001,
cửa Nam-quan cũ lùi lại sau,
Cửa Hữu-nghị mới!!!
Cửa Hữu-nghị mới!!!
4.3.2 - Mất cửa ngõ giao thông lịch sử giữa tộc Hoa, tộc Việt.
Tôi đã nhiều lần từ Việt-Nam sang Trung-quốc bằng cửa ải này và ngược lại. Lãnh thổ Hoa-Việt được phân chia bởi một con sông nhỏ. Đây là cửa họng giao thông của Trung-quốc, Việt-Nam bằng đường bộ. Suốt hơn mấy nghìn năm qua, dân Hoa-Việt giao thương đều qua đây. Chính vì vậy mà con đường quốc lộ xuyên Việt mang tên Quốc-lộ 1, được đánh số cây số Zéro từ đầu cây cầu Nam-quan. Tất cả thư tịch Việt-Nam đều chép rằng:
"Con đường Bắc-Nam khởi từ ải Nam-quan".
Hoặc:
"Lãnh thổ Việt-Nam Bắc giáp Trung-hoa, khởi từ ải Nam-quan đến mũi Cà-mâu, theo hình chữ S".
Bây giờ nếu Quý-vị vào Website của Bộ Ngoại-giao Việt-Nam, Quý-vị sẽ không thấy hàng chữ trên, mà chỉ thấy câu:
"Lãnh thổ Việt-Nam khởi từ cây số không ở phía Bắc".
Thưa Quý-vị,
Cái cây số không đó là cây số 1,5 cũ đấy. Cột cây số Zéro bây giờ ở nằm giửa Mục Nam-quan và cửa Hữu-nghị mới. Từ cây số Zéro đến cây số 1, nay thuộc Trung-quốc.
Sát Mục Nam-quan, phía bên Trung-quốc cũng như Việt-Nam, đều có nhiều cơ sở:
- Cơ sở Hải-quan,
- Bãi đậu cho hằng trăm xe tải, để chờ kiểm soát, chờ làm thủ tục nộp thuế.
- Cơ sở di trú của Công-an để kiểm soát Passeport,
- Đồn của quân đội để tuần phòng, bảo vệ lãnh thổ,
- Hằng chục cơ quan, khác như Bưu-điện, Ngân-hàng, công ty điện, nước.
- Về phía dân chúng, hằng trăm cửa hàng ăn, nhà ngủ, khách sạn.
Các cơ sở phía Nam thuộc Việt-Nam, trong chiến tranh Hoa-Việt 1979, quân đội Trung-quốc đã san bằng hết. Kể cả cây cột biên giới.
Tuy vậy sau chiến tranh, đã xây dựng lại hoàn toàn. Từ khi có phong trào mở cửa, đổi mới chính trị, dân chúng cả hai bên đã xây dựng lại khang trang hơn cũ, rộng lớn hơn cũ, và hiện đại hơn cũ. Nhưng từ khi hiệp định 30-12-1999 ký thì toàn bộ khu này thuộc Trung-quốc. Những cơ sở đó bây giờ được thay bằng một tòa nhà duy nhất. (Hình đính kèm)
Hình chụp từ phía lãnh thổ
Trung-quốc mới (VN cũ) sang,
căn nhà này là Nam-quan thứ 5,
căn nhà này là Nam-quan thứ 5,
trong nước gọi là
cửa khẩu Hữu-nghị của VN (mới)
cửa khẩu Hữu-nghị của VN (mới)
4.3.3, Mất dân, mất di tích lịch sử.
Đi sâu vào khu vực phía Nam của Nam-quan ít cây số nữa là quận lỵ Đồng-đăng, rồi tớiø tỉnh lỵ Lạng-sơn. Đây cũng là đất thiêng, khu có di tích văn hóa lịch sử của tộc Việt: Động Tam-thanh, tượng núi Tô-thị, thành của bọn giặc Mạc trên núi. Vùng Lạng-sơn xưa là Thủ-đô của con cháu giặc Mạc Đăng-Dung, mà năm 1540 đã dâng đất cho Trung-quốc, để được bao che cát cứ quân phiệt một thời gian. Trong chiến tranh Hoa-Việt 1979, hầu như toàn bộ các cơ sở kỹ nghệ, cầu cống, dinh thự, di tích tôn giáo, lịch sử, cơ sở hành chính, thương mại, kể cả nhà cửa của dân chúng bị san bằng. Chắc Quý-vị cho rằng tôi dùng từ Coventry có đôi chút quá đáng. Thưa Quý-vị từ Coventry cũng chưa đủ để chỉ việc quân đội Trung-quốc đã làm ở Lạng-sơn. Kinh khiếp nhất là động Nhất-thanh, Nhị-thanh, Tam-thanh, họ cũng dùng đại bác bắn vào làm hư hại rất nhiều.
Đi sâu về phía Nam ít cây số nữa là Ải Chi-lăng, nơi mà quân Trung-quốc vượt qua không biết bao nhiêu lần để tiến về thủ đô Thăng-long của Việt-Nam xưa. Tại đây đã diễn ra những trận chiến ác liệt, khiến ít nhất 73 vạn quân của các triều đại Tống, Mông-cổ, Minh, Thanh bị giết. Và cũng tại đây, có không biết bao nhiều tướng của các triều đại trên bị tử trận. Khi quân Việt giết những tướng, dù vào thời kỳ nào chăng nữa thì đầu vẫn bêu tại một mỏm núi, gọi là núi Đầu-quỷ.
Tại ải Chi-lăng, núi Đầu-quỷ đều khắc bia đá ghi lại di tích lịch sử.
Hồi chiến tranh Hoa-Việt 1979, khi các tướng Hồng-quân cho quân tiến đến đây, nghe nhắc chuyện cũ thì họ toát mồ hôi lạnh, phải ngừng lại. May mắn thay khu này vẫn còn thuộc lãnh thổ Việt. (2 hình đính kèm)
Bia lưu niệm Ải Chi-lăng
Cửa Ải Chi-lăng,
yết hầu biên giới vào đồng bằng Bắc-bộ
Trở lại vùng đất mà đảng Cộng-sản Việt-Nam đã nhượng cho Trung-quốc, dĩ nhiên họ nhượng cả dân chúng nữa. Trong năm nghìn năm lịch sử chiến tranh Hoa-Việt, dân chúng, chiến sĩ tại vùng này là lực lượng đầu tiên chống quân Trung-quốc. Họ phải hy sinh tính mạng, tài sản đầu tiên, khi quân Trung-quốc đánh sang. Có không biết bao nhiêu di tích, huyền sử về núi non, về sông ngòi, về cuộc chiến, về gương anh hùng. Chính quyền các triều đại đều tuyên dương công lao của họ, họ từng hãnh diện đời nọ sang đời kia. Bây giờ vùng này trao cho Trung-quốc, kẻ thù năm nghìn năm của họ. Họ bị mất mát quá nhiều về tinh thần. Họ phải cúi mặt chịu sự cai trị của kẻ thù. Bao nhiêu di tích lịch sử, huyền sử phải phá bỏ, không được nhắc tới. Thương tổn tinh thần quá lớn.
Gần đây nhất, trong chiến tranh 1979, phía Việt cũng như Trung-quốc, chôn trên lãnh thổ mình, dọc theo biên giới mấy chục vạn quả mìn. Sau chiến tranh mới đào lên. Phía Việt lập rất nhiều đồn, hầm, công-sự chiến đấu dọc biên giới thành 4 vòng đai. Mấy chục nghìn chiến sĩ Việt tử trận tại đây. Hiện những cơ sở đó vẫn còn. Trong khu vực này dân chúng, gia đình liệt sĩ đã ghi dấu tưởng niệm thân hân họ. Nay trao cho Trung-quốc, dĩ nhiên các di tích này bị phá hủy. Dân chúng đang là lực lượng chong mặt với kẻ thù, bảo vệ lãnh thổ, nay họ bỗng trở thành những người Trung-quốc bất đắc dĩ. Các vòng đai phòng thủ bị mất. Dân tộc Việt-Nam mất mát về an ninh quá nhiều.
Ghi chú của IFA
Chúng tôi xin sao nguyên văn bản hiệp ước Pháp-Thanh ngày 26-6-1887 tại văn khố Pháp.
Les Commissaires nommés par:
- Le Président de la République Française,
- et par S.M l'Empereur de Chine,
en exécution de l'article 3 du Traité du 9 Juin 1885 pour reconnaỵtre la frontière entre la Chine et le Tonkin ayant terminé leur travaux,
Monsieur. Ernest Constans, député, ancien Ministre de l'intérieur et des cultes, commissaire du Gouvernement, envoyé extraordinaire de la République Française,
d'une part, Et S.A.le Prince K'ing, prince du second rang, président du Tsoung-li-Yamen, assisté de S.Exc. Souen-Yu Quen, membre du Tsoung-li-Yamen, premier vice-président du ministère des travaux publics;
Agissant au nom de leurs gouvernement respectifs;
Ont décidé de consigner dans le présent Acte les dispositions suivantes destinées a régler définitivement la délimitation de ladite frontière:
- 1° Les procès-verbaux et les cartes y annexées qui ont été dressées et signés par les Commissaires Français et Chinois sont et demeurent approuvés;
- 2° les points sur lesquels l'accord n'avait pu se faire entre les deux commissions, et les rectifications visées par le deuxième paragraphe de l'article 3 du Traité du 9 Juin 1885 sont réglés ainsi qui suit:
Au Kouang-tong, il est entendu que les points contestés qui sont situes a l'est et au nord-est de Monkạ, au-delà de la frontière telle qu 'elle a été fixée par la Commission de délimitation, sont attribués à la Chine.
Les ỵles qui sont à l'est du méridien de Paris 105° 43' de longitude est, c'est à dire la ligne nord-sud passant par la pointe orientale de l'ỵle de Tch’a Kou ou Ouanchan (Tra-co) et formant la frontière ,sont également attribuées a la Chine. Les ỵles Go-tho et les autres ỵles qui sont à l'ouest de ce méridien appartiennent à l'Annam. Les Chinois coupables ou inculpés de crimes ou de délits qui chercheraient refuge dans ces ỵles , seront, conformément au stipulations de l'article 27 du Traité du 25 Avril 1886, recherchés , arrêtés et extradiés par les Autorités Françaises.
Sur la frontière du Yun-Nan, il est entendu que la démarcation suivra le tracé suivant: De Keou-teou-tchai (Cao-dao-trai) sur la rive gauche du Siao-tou-tcheou-ho (Tien-do-chu-ha), point M de la carte de la deuxième section , elle se dirige pendant 50 lis (20 km) directement de l'ouest vers l'est en laissant à la Chine les endroits de Tsui-kiang-cho ou Tsui-y-cho (Tu-nghia-xa), Tsui-mei-cho (Tu-mi-xa) Kiang-fei-cho ou Y-fei-cho (Nghia-fi-xa), qui sont au nord de cette ligne, à l'Annam celui de Yeou-p'ong-cho (Hu-bang-xa) qui en est au sud, jusqu'aux points marqués Pet Q sur la carte annexe ou elle coupe les deux branches du second affluent de droite de Hoi-ho (Hac-ha) ou Tou-cheou-ho (Do chu-ha).A partir du point Q, elle s'infléchit vers le sud-est d'environ 15 lis(6 km),jusqu'au point R, laissant à la Chine le territoire de Nan-ian (Nam-don) au nord de ce point R; puis à partir de ce dit point remonte vers le nord-est jusqu'au point S,en suivant la direction traçée sur la carte par la ligne R-S,le cours de Nan-teng-ho (Nam-dang-ha) et les territoires de Manmẹ (Man-mi),de Mong-tong-chang-s'oun (Muang-dong-troung-then), de Mong-tuong-chan (Muong-dong-son), de Mong-tuong-tchoung-ts’uon (Muong-dong-truong-thon) et de Meng-tuong-chia-ts'ou (Muong-dong-ha-thon) restant a l'Annam. A partir du point S (Meng-tuong-chia-ts’ou ou Muong-dong-ha-thon), le milieu du Ts'ing-chouei ho (Than thuy ha ) indique jusqu'à son confluent , en T, avec la rivière Claire , la frontière adoptée. Du point T, son tracé est marqué par le milieu de la rivière Claire jusqu'au point X, à hauteur de Tch'ouan-teou (Thuyen-dan. Du point X, elle remonte jusqu'au point Y, en passant par Paiche-yai (Bach-thach-giai) et Lao-ai-k'an (Lao-hai-kan), la moitié de chacun de ces deux endroits appartenant a la Chine et à l'Annam;ce qui est à l'est appartient à l'Annam, ce qui est a l'ouest à la Chine. A partir du point Y ,elle longe, dans la direction du nord, la rive droite du petit affluent de gauche de la rivière Claire, qui la reçoit entre Pien-pao-kia (Bien-bao-kha) et Pei-pao (Bac-bao) et gagne ensuite Kao-ma-pai (Cao-mabach),point Z ou elle se raccorde avec le tracé de la troisième section.A partir de Long-po-tchai (cinquième section), la frontière commun du Yun Nan et de l'Annam remonte le cours du Long-po-ho jusqu'à son influent avec le Ts'ing-chouei-ho ,marqué A sur la carte; du point A , elle suit la direction générale du nord-est au sud-ouest jusqu'au point B indiqué sur la carte ,endroit ou le Sai-kiang-po reçoit le Mien-chouei-ouan; dans ce parcours ,la frontière laisse à la Chine le cours du Ts'ing-chouei-ho. Du point B, la frontière, la direction est-ouest jusqu'au point C ó elle rencontre le point Teng-tiao-tchiang au dessous de Ta-chou-tchio ; Ce qui est sud de cette ligne appartient à l'Annam, ce qui est au nord ,à la Chine. Du point C, elle descend vers le sud en suivant le milieu de la rivière Teng-tiao-Tchiang jusqu'à son confluent au point D avec le Tsin-tse-ho. Elle suit ensuite le Tsin-tse-ho pendant environ 30 lis et continue dans la direction est-ouest jusqu'au point D ou elle rencontre le petit ruisseau qui se jette dans la rivière Noire (Hei-tciang ou Hac-giang) à l'est du bac de Meng-pang.Le milieu de ce ruisseau sert de frontière du point E au point F.A partir du point F, le milieu de la rivière Noire sert de frontière à l'ouest.
Les Autorités locales Chinoises et les Agents désignés par le Résident générale de la République Française en Annam et au Tonkin seront chargés de procéder a l'abornement, conformément aux cartes dressées et signées par la Commission de délimitation et au tracé ci-dessus. Aux présent actes sont annexées trois cartes en deux exemplaires, signées et scellées par les deux parties. Sur ces cartes, la nouvelle frontière est tracé par un trait rouge et indiquez sur la carte de Yun Nan par les lettres de l'alphabet française et les caractères cycliques Chinois.
Fait a Pékin, en double expédition, le 26 Juin 1887. ( Signature et cachet du Plénipotentiaire Chinois)
Signé:Constans
(Cachet de la légation de France à Pékin)
Phụ đính 1
4.4 - Vụ cắt lãnh hải.
Hiệp định phân định lãnh hải Việt-Nam, Trung-quốc ngày 25-12-2000.
Từ giữa thế kỷ thứ 19 về trước, chưa từng có việc ấn định rõ lãnh hải Việt-Hoa. Tuy nhiên vào thế kỷ thứ 15, Việt-Nam đã định lãnh hải qua vụ nhà vua sai vẽ Hồng-đức bản đồ. Theo bản đồ này thì các quần đảo Hoàng-sa (Tây-sa) và Trường-sa (Nam-sa) thuộc Đại-Việt. Và hai quần đảo đó đều thuộc Việt-Nam cho đến khi Bộ Chính-trị thời 1958 trao cho Trung-quốc (trên lý thuyết).
Vào những thời kỳ ấy (1500-1887) , Thủy-quân cũng như thương thuyền, tầu đánh cá của cả Hoa lẫn Việt chỉ là những thuyền nhỏ, không ra xa bờ biển làm bao, nên chưa có những đụng chạm.
Sau khi triều Nguyễn của Việt-Nam ký hòa ước năm 1884, công nhận quyền bảo hộ của Pháp; thì người Pháp mới định rõ lãnh hải. Nước Pháp với tư cách bảo hộ Việt-Nam, đã ký với Thanh-triều hòa ước 1887, định rõ lãnh hải trong vùng vịnh Bắc-Việt. Đối với hòa ước này, Việt-Nam đã chịu khá nhiều thiệt hại, vì mất một số đảo, mà dân chúng là người Việt, nói tiếng Việt, mặc y phục Việt, sống trong văn hóa Việt. Cho đến nay (2001), dân trên các đảo này vẫn còn nói tiếng Việt, ẩm thực theo Việt, và dùng y phục Việt. (Chúng tôi đã từng thăm vùng này hồi 1983).
Tuy nhiên với hòa ước 1887, lãnh hải vịnh Bắc-Việt được phân chia như sau:
- Trung-quốc 38 %
- Việt-Nam 62%
Đối với người Pháp, thời đó họ chưa hiểu rõ tình trạng giữa Trung-hoa và Việt-Nam, họ thấy Thanh-triều chấp nhận 38%, thì cho rằng mình thắng thế. Còn Thanh-triều khi đạt được 38%, họ coi như một món quà trên trời rơi xuống. Vì trong quá trình lịch sử, Trung-quốc vẫn coi vịnh Bắc-Việt là của Việt-Nam.
Chứng cớ:
- Vùng đất Hợp-phố là đất cực Nam của Trung-quốc, thế nhưng lại có hải cảng Bắc-hải. Bắc đây chỉ có thể là Bắc đối với Việt-Nam. Nếu là đất của Trung-quốc họ phải gọi là thị xã Nam-hải chứ? Rõ ràng vùng này là đất cũ của Việt-Nam.
- Vùng vịnh nằm ở phía Nam Trung-quốc, phía Tây đảo Hải-Nam, phía Đông Bắc Việt-Nam mà Pháp-Hoa ký hòa ước 1887 đó, Việt-Nam gọi là vịnh Bắc-Việt. Trung-quốc cũng gọi là vịnh Bắc-bộ. Cho đến nay (2001), họ cũng vẫn dùng tên đó. Vậy thì rõ ràng vịnh này của Việt-Nam. Nếu của Trung-quốc thì họ phải gọi là vịnh Nam-bộ chứ?
Cử tọa hỏi, câu hỏi thứ 15,
Có sách Tây-phương nào viết về vấn đề này không?
Gs TĐS,
Nhiều lắm, tôi xin cử ra vài tài liệu mới đây:
- Edward H.H, Schafer trong Shore of Pears (châu Nhai) (Berkley-London 1970),
Tác giả căn cứ vào khai quật, cũng như khảo cổ đã kết luận rằng:
Vào thời Hán, đảo Hải-Nam không có đường thông thương với Trung-quốc. Đảo này thuộc Giao-chỉ. Tất cả thương thuyền đều từ Giao-chỉ tới. (TĐS ghi chú dành riêng cho người Việt: Tôi đã tới Hải-Nam nghiên cứu 2 lần. Tại đây tôi tìm ra nhiều di tích thời vua Trưng, nên trong bộ "Cẩm-khê di hận" tôi đã thuật lại trận chiến giữa Hán-Việt. Nhiều "học giả" ngu dốt, công kích tôi, thấy họ ngu quá tôi không trả lời.)
Cử tọa hỏi câu hỏi thứ 16,
- Xin cho biết việc phân chia lãnh hải Hoa-Việt theo hiệp ước 1887?
Gs TĐS,
Tôi xin chiếu lên để Ngài thấy.
Đảo Hải-Nam,
lãnh thổ thời Lĩnh-Nam (vua Trưng)
về trước.
về trước.
Hình vẽ trong sách của E.H. Schefer.