mercredi 19 octobre 2011

Đảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến Động Trong Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế . (8)


10. Do những nguyên tắc sinh hoạt như trên, trong ÐCS và trong xã hội "xã hội chủ nghĩa", hình thành rõ rệt một chế độ đẳng cấp có tính chất phong kiến, chủ yếu dựa trên mức độ được cấp trên tin cậy và do đó được hưởng thụ vật chất với mức độ khác nhau trong hàng ngũ cán bộ. Người ta gọi đó là "chế độ đãi ngộ cán bộ", nhưng thật ra đó là một chế độ đặc quyền đặc lợi với những quy định cực kỳ phức tạp và phong kiến. Thậm chí khi đã chết rồi, những cán bộ cộng sản cũng "được" phân biệt đối xử theo chế độ đặc quyền đặc lợi đó: từ việc cáo phó được đăng báo hay không, vị trí trên tờ báo - trang nhất hay trang cuối, kèm ảnh hay không kèm ảnh, khổ ảnh to nhỏ, rộng hẹp, cho đến việc chôn cất như thế nào, lễ nghi ra sao, ai được chôn ở đâu, rộng hẹp mấy thước, v.v... Ðấy, người cộng sản vô thần, "chí công vô tư" coi trọng cái chết của họ như thế đấy. Còn những thứ khác liên quan đến sự sống vật chất thì khỏi phải nói! Tất cả mọi thứ, từ cái ăn, cái mặc, cái ở, việc chữa bệnh, an dưỡng, nghỉ ngơi, thậm chí đến việc học hành của con cái đều phân biệt đối xử chi li theo đẳng cấp, tôn ti trật tự. Ngày nay, giai cấp cầm quyền cộng sản vẫn tiếp tục duy trì chế độ đẳng cấp để dựa vào các tổ chức chính quyền, các công ty quốc doanh ăn của đút, ức hiếp dân thường, mánh mung làm ăn bất hợp pháp, che đậy cho thân thuộc đứng đầu các công ty gọi là "tư nhân" vơ vét tài sản nhà nước, làm giàu bất chính. Chính vì thế, từ lâu rồi trong ÐCSVN đã hình thành một lớp "nịnh thần" - lớp người do khéo bợ đỡ, xu nịnh, a dua cấp trên mà được đề bạt làm cán bộ lãnh đạo, có đủ mọi đặc quyền đặc lợi, mà trước tiên là "đặc lợi" tham nhũng. Lớp "nịnh thần" này là nòng cốt của giai cấp mới thống trị trong xã hội "xã hội chủ nghĩa" Việt Nam, là chỗ dựa của ÐCSVN.
Ngày nay, trong văn chương bình dân dưới thời "xã hội chủ nghĩa" vẫn còn truyền tụng câu ca dao châm biếm cái chế độ phân phối thực phẩm theo đẳng cấp phong kiến đó của "đảng ta":
Tôn Ðản (cửa hàng ở phố Tôn Ðản bán hàng tốt và rẻ cho cán bộ cao cấp) là chợ vua quan,
Nhà Thờ (cửa hàng ở phố Nhà Thờ bán cho cán bộ trung cấp) là chợ trung gian nịnh thần,
Ðồng Xuân (còn nói là Bắc Qua) là chợ thương nhân,
Vỉa hè là chợ nhân dân anh hùng.

11. ÐCSVN ngoài miệng thường tuyên bố là họ đấu tranh cho một xã hội không có giai cấp, đấu tranh cho công bằng xã hội, v.v... nhưng khi đã cầm quyền rồi thì chính họ lại đẻ ra một giai cấp xã hội mới - giai cấp quan liêu nomenklatura, và ngay trong giai cấp đó lại chia ra nhiều đẳng cấp rõ rệt, tạo nên sự bất bình đẳng xã hội trầm trọng nhất. Vì thế đầu óc đẳng cấp "xôi thịt", nạn "mua quan bán chức" nặng nề làm cho số ít người có nhân cách trong đảng thấy xấu hổ, nhưng một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên thì như đàn ruồi lao vào "đĩa mật" đặc quyền đặc lợi, đua nhau còng lưng cúi gối, luồn lọt nịnh bợ cấp trên, cốt để leo lên địa vị cao hơn. Lên địa vị cao hơn thì lại muốn cao hơn nữa và quay lại đè nén cấp dưới, hoạnh họe làm tiền để bù vào "chi phí sản xuất" khi phải đút lót cấp trên. Ngày nay, nhiều người vào ÐCS là để kiếm lợi, để vươn lên giai cấp cầm quyền, chứ không phải để đấu tranh cho xã hội công bằng tốt đẹp. Vì thế ở nông thôn Việt Nam nghèo khổ, tối tăm, người nông dân vẫn bị đám "cường hào mới", chủ yếu là cán bộ của đảng, đè nén, áp bức, bóc lột không khác gì dưới thời Pháp thuộc, có khi còn nặng nề hơn vì bộ máy cai trị ở nông thôn ngày nay đông hơn thời Pháp gấp bội (theo thống kê của Trần Văn Giàu, số cán bộ nhân viên nhà nước chỉ trong một tỉnh Thanh Hóa đã đông hơn số công chức toàn Ðông Dương dưới thời Pháp). Còn ở thành thị thì nạn tham nhũng tràn lan, các "quan cán bộ" tha hồ nhận "phong bì" hầu như bán công khai. Thậm chí tổng bí thư ÐCS cũng nhận "phong bao" của công ty nước ngoài hàng triệu đô la, những ủy viên BCT TƯ hay ủy viên TƯ, thủ tướng, phó thủ tướng, thống đốc Ngân hàng nhà nước đút túi riêng bạc triệu bị cán bộ đảng viên trung thực tố cáo, khiếu nại bao lần thì vẫn nguyên vị (mới đây một phó thủ tướng và một thống đốc Ngân hàng bị "xử lý nội bộ" theo kiểu "giơ cao đánh khẽ"!), còn những cán bộ đảng viên thật lòng muốn giúp lãnh đạo làm trong sạch bộ máy đảng- nhà nước thì lại bị đàn áp, sách nhiễu, hành hạ "đến sống dở chết dở" (xem: thư của cựu chiến binh Trần Dũng Tiến gửi tổng bí thư Lê Khả Phiêu tố cáo tình cảnh 11 cựu đảng viên bị đàn áp vì đã dám vạch trần tội tham nhũng của các cán bộ cao cấp). Cái gọi là tính chất "tiên phong" của ÐCSVN ngày nay quả thật là sự mỉa mai chua chát.

12. Chính do sự sa đọa đạo đức của cán bộ đảng viên, sự biến chất khủng khiếp của ÐCSVN như vậy, nên hiện nay trong ÐCSVN tình trạng chia bè, lập khối rất trầm trọng và phổ biến dựa trên "nguyên tắc" giành và giữ lợi ích kinh tế và địa vị trong đảng-nhà nước. Các cấp càng cao thì sự đấu đá nhau càng dữ dội và thâm độc để giành và giữ quyền lực. Còn ở nông thôn tình trạng năm bè bảy bối thật trầm trọng, các chi bộ đảng ở nhiều nơi dựa theo "nguyên tắc" tộc phái, họ hàng (clan), họ nọ chống họ kia. Cái gọi là "tình đồng chí", "tình giai cấp" chỉ là sự mỉa mai! Tình trạng chia rẽ, bè phái này cũng như nạn tham nhũng là những chứng bệnh nan trị kinh niên của ÐCS kể từ năm 1945, khi đảng bắt đầu cầm quyền. Các "vị" lãnh đạo đảng đều hô hào chống những tệ nạn đó nhưng nào có ăn thua gì vì chính bản thân họ cũng ngập ngụa trong những tệ nạn đó, cho nên mọi cuộc "chỉnh đảng" xưa nay đều chỉ là hình thức.

13. Từ khi ÐCSVN ra đời, ở Việt Nam đã diễn ra cuộc đấu tranh ác liệt, không ngừng giữa chủ nghĩa quốc tế (internationalisme) và chủ nghĩa quốc gia (nationalisme). ÐCSVN theo chủ nghĩa quốc tế vô sản, đặt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trong phạm trù cách mạng vô sản thế giới, nhằm mục tiêu giành chuyên chính cho giai cấp vô sản quốc tế để xây dựng chủ nghĩa cộng sản trên thế giới. Như thế có nghĩa là ÐCS đặt cách mạng Việt Nam phụ thuộc trực tiếp vào QTCS, chịu sự chi phối của tập đoàn thống trị ÐCSLX. Còn chủ nghĩa quốc gia (sau này, những người cộng sản Việt Nam thường dùng từ "chủ nghĩa dân tộc" để dịch chữ nationalisme) thì hướng tới việc giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ nước ngoài và xây dựng đất nước độc lập, hùng cường mà không muốn gắn số phận đất nước và dân tộc vào chủ nghĩa cộng sản, nên tích cực chống lại chủ nghĩa quốc tế. Cố nhiên, chủ nghĩa quốc gia gắn nền kinh tế đất nước vào hệ thống kinh tế tư bản thế giới. Vì thế ÐCSVN coi chủ nghĩa quốc gia là khuynh hướng chính trị của giai cấp tư sản, là khuynh hướng đối lập, thù địch với mình nên luôn luôn chống chủ nghĩa quốc gia và những người theo chủ nghĩa quốc gia một cách vô cùng ác liệt. Ðã thế mà vẫn còn bị QTCS nghiêm khắc phê bình. Sau đây, chúng tôi xin trích dẫn một đoạn trong Thư của QTCS gửi ÐCS Ðông Dương hồi năm 1931: "Có nhiều chứng cớ chỉ rằng đảng không hiểu rõ cái nguy hiểm của chủ nghĩa quốc gia cải lương, đảng không kịch liệt tranh đấu, không giải thích rõ cho quần chúng hiểu rõ tính chất phản dân, phản quần chúng của bọn quốc gia cải lương. Dù cái vai tuồng của chúng không lấy gì làm lớn... ... Ảnh hưởng của tư tưởng quốc gia cải lương vẫn có ở trong đảng...". (RSKHIDNI ở Kho 495, Bảng kê 154, Hồ sơ 567, trang 8-9, bản tiếng Việt, nên chúng tôi chép lại nguyên văn). Sau khi cướp được chính quyền, việc đầu tiên những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam quan tâm là tiêu diệt các lãnh tụ và các đảng quốc gia để thực hiện nền chuyên chính độc tôn của họ. Suy cho cùng, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa quốc tế và chủ nghĩa quốc gia về thực chất chỉ là cuộc đấu tranh quyền lực mà thôi. Chính vì thế, ngay với những người quốc tế, như Ðệ tứ quốc tế, thì vì đấu tranh quyền lực, những người cộng sản quốc tế cũng sẵn sàng vu khống họ là "gián điệp", "tay sai đế quốc, phát xít"... để thẳng tay tiêu diệt họ.

14. ÐCSVN là một phân bộ của QTCS, phải thực hiện những nghĩa vụ đối với QTCS, mà các lãnh tụ QTCS, thật ra là tay chân của tập đoàn thống trị ÐCSLX, thì chỉ quan tâm đến ý đồ "quốc tế" của họ. Ðó là sự thật. Tuy nhiên, cũng có một sự thật khác là: nghe nói QTCS quan tâm đến việc giải phóng các nước thuộc địa, nghe nói ÐCSVN đấu tranh giành độc lập dân tộc thì nhiều người Việt Nam, nhất là thanh niên trí thức vừa có lòng yêu nước vừa có khát vọng dân chủ, đã hồ hởi đi theo ÐCS với lòng mong ước đất nước được độc lập, dân tộc được tự do, chứ lúc đầu họ không biết rõ về chủ nghĩa cộng sản, về chủ nghĩa quốc tế, về chuyên chính vô sản (cũng có khi ÐCS giấu không nói những điều đó với họ từ đầu). Nhưng khi đã vào ÐCS rồi, cũng như "cá đã vào lờ", với sự giáo dục, với kỷ luật sắt và mọi cơ chế kìm chế khác của đảng, dù muốn dù không, cuối cùng họ cũng phải chấp nhận những thứ đó. Càng về sau, khi chế độ cực quyền đã thiết lập rồi thì một số đảng viên có tinh thần dân tộc và ý thức dân chủ càng nhận thấy ban lãnh đạo ÐCS thực tế đã trở thành những kẻ thống trị dân tộc, phản bội những lời hứa hẹn tốt đẹp về dân chủ tự do, về công bằng xã hội, thì họ lên tiếng phản đối. Ðó chính là nguồn gốc của trào lưu bất đồng chính kiến (dissidence) trong đảng.

15. Có điều đáng nói là lúc mới đầu, trong thập niên 30, ÐCSVN lệ thuộc rất chặt vào QTCS, những người lãnh đạo đảng luôn luôn cố tỏ ra đắc lực với QTCS, họ thi hành triệt để mọi mệnh lệnh của QTCS, nên cái tệ giáo điều cứng nhắc trong lãnh đạo của đảng rất nặng nề. Từ đầu và giữa thập niên 40, do bị đứt liên lạc với QTCS, lại gặp rất nhiều khó khăn, nên thời kỳ này ÐCSVN phải gượng nhẹ với các tầng lớp trong dân tộc, hoạt động ít nhiều có tính tự lập hơn, dù về căn bản vẫn tuân theo đường lối chung của QTCS. Trong những năm này, ÐCSVN có quan tâm hơn đến những vấn đề của dân tộc, nhờ đó đã tập hợp được đại đa số dân chúng làm cách mạng giải phóng đất nước và tổ chức cuộc kháng chiến chống Pháp. Chính trong thời gian này, đường lối phân biệt giai cấp của đảng chưa được nhấn mạnh, khối đoàn kết dân tộc tuy đã bị sứt mẻ do việc thanh trừng các đảng phái đối lập, nhưng còn chưa quá trầm trọng, dân chúng còn tập hợp quanh tổ chức Việt Minh (ÐCS đã nấp dưới chiêu bài này để che giấu thực chất cộng sản của mình). Trong ký ức nhiều người theo ÐCS trong cách mạng và kháng chiến còn ghi lại nhiều kỷ niệm tốt của thời gian này. Nhưng từ cuối thập niên 40đdầu thập niên 50, sau khi ÐCSTQ chiếm được toàn bộ Hoa lục, ÐCSVN nối lại liên lạc đã với ÐCSTQ và ÐCSLX và lại tiếp tục bị lệ thuộc về mọi mặt vào hai đảng "đàn anh" thì tình hình lại đổi khác, không khí hồ hởi biến mất, nhường chỗ cho sự sợ hãi và thù hận. Do tinh thần phục tùng nô lệ các thần tượng Stalin và Mao Trạch Ðông, do đầu óc giáo điều, rập khuôn máy móc các mô hình của Liên Xô và Trung Quốc, trong thời gian này ÐCSVN đã kỳ thị các giai cấp không vô sản, siết chặt "chuyên chính vô sản" (bắt chước Trung Quốc gọi là chuyên chính dân chủ nhân dân) và đã phạm nhiều bạo hành nghiêm trọng gây ra biết bao tai họa cho dân tộc - đặc biệt là trong cuộc "cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức", "hợp tác hóa nông nghiệp", "cải tạo tư sản", "cải tạo công thương nghiệp tư doanh", "vụ án Nhân Văn - Giai Phẩm", "vụ án Xét lại - chống Ðảng", v.v... Trong thời gian này, ÐCSVN hăm hở "làm nhiệm vụ quốc tế", tích cực "đấu tranh giai cấp", hăng hái "tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội" để biến "Việt Nam là tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa ở Ðông Nam Á", v.v... nên dân tộc ta đã phải trả giá cao nhất bằng xương máu, mồ hôi, nước mắt và tự do của mình.

16. Càng về sau, nhất là từ khi hệ thống xã hội chủ nghĩa và PTCSQT bị sụp đổ, ÐCSVN đã biến chất rõ rệt, không còn thực chất "cộng sản" nữa. Ðối với tập đoàn thống trị, những cái gọi là chủ nghĩa Marx-Lenin, chủ nghĩa quốc tế vô sản, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội, v.v... ngày nay không còn là niềm tin hay lý tưởng như xưa, mà chỉ là những chiêu bài để che đậy âm mưu giữ vững quyền lực cũng như quyền lợi của họ và của giai cấp quan liêu cầm quyền đất nước, là giai cấp thực tế đang thống trị và bóc lột dân tộc Việt Nam.
Ngày nay, ÐCSVN trên thực tế đã chia ra thành hai "đảng vô sản" đối lập nhau rõ rệt - một "đảng vô sản thống trị" và một "đảng vô sản bị trị", nói cụ thể hơn là một "đảng vô sản" nắm quyền với những đảng viên "vô sản" giàu có, nhà lầu, xe hơi, biệt thự, sống xa hoa phè phỡn, chủ nhân những công ty "quốc doanh" trá hình, thậm chí một số là chủ nhân những tài khoản hàng triệu, hàng chục triệu đô la ở các nhà băng ngoại quốc, chuyên ngồi trên các "ghế " cao để ra lệnh cho toàn đảng, và một "đảng vô sản" của những đảng viên thường, những cựu chiến binh, những người nghỉ hưu nghèo khổ, thật sự vừa "vô sản" lại vô quyền,ăn bữa nay lo bữa mai và chỉ biết cắm đầu cắm cổ chấp hành mệnh lệnh của cấp trên. Giữa hai "đảng vô sản" đó hầu như không có cái gì chung, ngoài những khẩu hiệu "vô sản" rỗng tuếch: muôn năm chủ nghĩa Marx-Lenin, muôn năm tư tưởng Hồ Chí Minh, muôn năm chủ nghĩa xã hội...