mercredi 19 octobre 2011

Đảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến Động Trong Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế . (6)


4. Các lãnh tụ cộng sản Việt Nam thường quả quyết rằng với sự ra đời của ÐCSVN, từ năm 1930, „quyền lãnh đạo (cách mạng Việt Nam - NMC) hoàn toàn về giai cấp vô sản“ (xem: Lê Duẩn. „Một vài đặc điểm của cách mạng Việt Nam“. Hà Nội. 1956), vì giai cấp vô sản là giai cấp tiên tiến nhất như Marx đã nói. Cứ cho rằng „phát kiến“ của Marx là một định đề (postulat) không cần phải chứng minh nữa (dù trên thực tế, „phát kiến“ đó đã bị thực tế bác bỏ), thì thử hỏi: khi ra đời, ÐCSVN có phải là đảng của giai cấp vô sản không? Hồi đó, ở Việt Nam/Ðông Dương đã trải qua cách mạng công nghiệp chưa? Ðã có giai cấp vô sản chưa? Nếu không có thì làm sao có thể coi ÐCSVN là đảng của giai cấp vô sản được? Và nếu nó không có tính chất vô sản thì nó mang tính chất gì? Giải đáp những câu hỏi này rất cần thiết, vì xây dựng đảng cũng giống như xây cất một ngôi nhà, cái nền móng giai cấp đầu tiên vô cùng quan trọng - trong những giai đoạn sau, khó mà thay đổi bản chất của nó được.
Theo những tài liệu công bố của nhà nghiên cứu mác-xít Trần Văn Giàu, vào năm 1929, ở Ðông Dương có 220 ngàn công nhân, trong đó đông nhất là công nhân và viên chức trong các ngành công nghiệp và thương nghiệp 86 ngàn người (39%) , công nhân đồn điền 81 ngàn người (độ 36,8%), công nhân mỏ 53 ngàn người (24%). Trần Văn Giàu lưu ý người đọc rằng đó chưa kể thợ may, thợ cạo, thợ giặt, chèo thuyền, đánh xe ngựa, kéo xe tay, bồi bếp, v.v... rất đông, lại chưa kể thầy giáo trường công, trường tư, trường đạo (xem: Trần Văn Giàu. „Giai cấp công nhân Việt Nam“. Hà Nội 1958, tr.169). Chẳng riêng gì Trần Văn Giàu, nói chung giới „học giả mác-xít“ của Hà Nội đều có khuynh hướng cố vơ vào giai cấp vô sản nhiều lớp người khác để chứng minh là ở Việt Nam/Ðông Dương đã có một giai cấp vô sản „đàng hoàng“ trước khi thành lập ÐCS, từ đó chứng minh „quyền lãnh đạo hoàn toàn về giai cấp vô sản“ đã được xác lập vững chắc. Họ thường cố ghép bừa các lớp người không thuộc về giai cấp vô sản vào một chữ chung chung là „công nhân“, mà lờ đi khái niệm rõ ràng của Marx và Engels về giai cấp vô sản „là giai cấp những người công nhân làm thuê hiện đại, do cách mạng công nghiệp đẻ ra“. Phải nói rằng về mặt này, tiếng Việt trước đây đã khá chính xác: trước năm 1945, trong từ vựng của dân tộc đã phân rõ các lớp người trong xã hội bằng những từ „thợ“, „phu“ và „thầy“.... Người ta nói „thợ“, „thợ máy“, „thợ thủ công“, v.v... (từ tập hợp là“thợ thuyền“), „phu“, „phu đồn điền“, „phu mỏ“, „phu khuân vác“, v.v... (từ tập hợp là „phu phen“), „thầy“, „thầy ký“, „thầy thông“, „thầy giáo“, v.v... một cách rất bình thường, hoàn toàn không có tinh thần kỳ thị. Nhưng sau tháng 8 năm 1945, những người cộng sản chỉ cho dùng một chữ „công nhân“ cốt làm cho sự phân biệt đó bị xóa nhòa, làm tăng số lượng „giai cấp công nhân“.
Xét về bản chất giai cấp vô sản theo đòi hỏi của Marx, thì phải nhận thấy rằng ngay cả thợ thuyền trong nhà máy ở Ðông Dương hồi những năm 20, 30 phần đông vẫn còn quan hệ kinh tế chặt chẽ với nông thôn, nhiều người có ruộng đất ở làng quê, như thế theo Marx, Lenin, là có sở hữu tư nhân. Thợ thuyền, phu mỏ, phu đồn điền, phu khuân vác... hồi đó, phần đông xuất thân từ nông dân, lớp nghèo thành thị và lớp „đáy“ xã hội mà Marx gọi là „lumpen-prolétariat“ (vô sản lưu manh), điều này ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng, tâm lý, não trạng của cái gọi là „giai cấp vô sản“ Việt Nam/Ðông Dương. Với chất liệu xã hội như thế để xây dựng đảng, thì làm sao ÐCS mang được tính chất vô sản? làm sao có thể gọi ÐCSVN là đảng vô sản được? Ðiều này càng về sau càng đẻ ra hậu quả cho dân tộc và cả cho cái gọi là sự nghiệp „vô sản“ nữạ
Dù cho cứ gọi chung tất cả khối người đó là công nhân, như các nhà nghiên cứu của đảng đã quyết đoán „lấy được“, và cứ giả dụ họ là một „giai cấp vô sản“ thật, „sinh ra từ cuộc cách mạng công nghiệp“ thật (dù cuộc cách mạng đó không có ở Ðông Dương và Việt Nam!), theo đúng tiêu chuẩn của Marx thật, thì cái tỉ lệ 1,1% công nhân (mà tuyệt đại đa số là mù chữ, không có học vấn hoặc có cũng rất thấp) so với dân số Việt Nam hồi đó (220 ngàn so với khoảng 20 triệu người; theo tài liệu của QTCS thì thống kê dân số toàn Ðông Dương hồi năm 1928 có 20 413 504 người, trong đó người Âu, không kể quân đội, là 20 528 người, dân nhập cư người Á, phần lớn Hoa kiều, là 688 317 người, „người An Nam“ 19 700 695 người) thì làm sao có thể khẳng định cái tỉ lệ rất bé nhỏ đó lại nhất định phải có „quyền lãnh đạo hoàn toàn“ đối với đại khối dân chúng gồm 98,9% dân số? làm sao có thể khẳng định được rằng ÐCSVN là của giai cấp vô sản và nhất định đảng ấy phải nắm độc quyền lãnh đạo đất nước? Thật ra, ngay cả những „nhà lãnh đạo“ của ÐCSVN không mấy ai hồi đó đã đọc nổi các tác phẩm chủ yếu của các vị tổ sư của chủ nghĩa cộng sản, nhiều người may lắm là được biết vài nét sơ lược, thế thì làm sao dám quả quyết là „quyền lãnh đạo hoàn toàn về giai cấp vô sản“ được? Hơn nữa, các „nhà lãnh đạo“ đó phải chăng là vô sản? Trong một tài liệu của QTCS bằng tiếng Pháp, nhan đề „Questions intérieurs du Parti et les fautes opportunistes dans le Parti. Tâches imédiates“ (Những vấn đề nội bộ của Ðảng và những sai lầm cơ hội chủ nghĩa trong Ðảng. Những nhiệm vụ trước mắt), bài nói ngày 21.9.1931 (RSKHIDNI ở Kho 495, Bảng kê 154, Hồ sơ 561, tr.1-5) có nhận xét như sau: „những sai lầm cơ hội chủ nghĩa trong ÐCSVN là do nguồn gốc xã hội của đảng“... „thành phần xã hội của đảng rất xấu, đa số là trí thức“... „tiểu tư sản thống trị“, nên trong đảng có nhiều phần tử cơ hội. Ðó là cách nhìn của QTCS đối với ÐCSVN, chúng tôi muốn giới thiệu mà không bình luận để bạn đọc rộng đường suy nghĩ.
Vì thế không lấy làm lạ khi thấy những thành phần không vô sản hoặc thuộc tầng lớp vô sản lưu manh giữ vai vế trọng yếu trong ÐCSVN - tổng bí thư xuất thân là hoạn lợn, ủy viên BCT kiêm chủ tịch nước vốn là cai phu đồn điền từng đánh đập phu phen, ủy viên BCT xuất thân một tên móc túi lại vỗ ngực là công nhân, v.v... Biết bao hiện tượng đáng buồn chỉ làm tủi hổ giai-cấp-vô-sản-lý-tưởng của Marx, như có những ủy viên BCT luôn miệng răn dạy đảng viên về lòng trung thành thì hóa ra là đã từng khai báo phản bội hay thậm chí làm tay sai cho địch, kẻ chết rồi mới phát hiện ra, người bị vỡ lở khi còn tại chức... Nhưng, có lẽ, đáng buồn hơn cả là sự lây lan tính chất lumpen (lưu manh) từ lãnh đạo ra đảng viên, trong ÐCS ra ngoài dân chúng và đã tạo nên sự sa đọa rất trầm trọng về đạo đức, nhân cách và tinh thần trong đảng và ngoài xã hội. Mà hậu quả của tình trạng này không dễ dàng gì giải quyết trong một vài thế hệ dưới chế độ dân chủ. Quá trình lumpenization (lưu manh hóa) vừa nói thì không riêng gì ÐCSVN bị mà là một hiện tượng phổ biến ở hầu hết các đảng cầm quyền. ÐCS càng hô khẩu hiệu „xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa“ bao nhiêu thì kết quả thu được càng ngược lại điều họ nói bấy nhiêu. Các bạn đọc đã từng sống dưới những chế độ khác nhau thì dễ dàng so sánh và thấy rõ điều nàỵ
5. Ngay từ đầu, ÐCSVN được xây dựng theo đúng „lý luận“ và mẫu mực của đảng Lenin và Stalin, nghĩa là một hội kín của những kẻ âm mưu, gồm phần lớn là „những người cách mạng chuyên nghiệp“ được nuôi dưỡng, đào tạo và chỉ huy từ bên ngoài. Cái „tính chất âm mưu“, „hành động khủng bố“ thể hiện rõ trong hoạt động của đảng, thậm chí cả về sau này khi đảng đã nắm quyền rồi. Ngay cái nguồn tài chính của đảng suốt mấy chục năm hoạt động bí mật và kháng chiến dựa vào việc buôn lậu thuốc phiện cũng đủ nói rõ cái tính chất của đảng. Lúc mới thành lập, ÐCSVN nhắm mục tiêu trước mắt quan trọng nhất là cướp chính quyền bằng bạo lực, dưới sự chỉ huy của „những người cách mạng chuyên nghiệp“. Cứ tỉnh táo nhìn vào thành phần xuất thân, trình độ học vấn, v.v.... của „những người cách mạng chuyên nghiệp“ đó, thì dễ dàng nhận thấy họ là hạng người chỉ có khả năng tổ chức những cuộc âm mưu, khủng bố, đập phá, đàn áp, cưỡng bức, v.v... chứ không có khả năng làm công việc có tính xây dựng. Vì thế, trong suốt quá trình tồn tại, đầu óc sùng bái bạo lực của ÐCS rất nặng. Trường Chinh đã viết: „Từ ngày ra đời, luôn luôn trung thành với tư tưởng cách mạng bạo lực của chủ nghĩa Marx-Lenin, ... đảng ta đã xác định con đường cách mạng bạo lực là con đường duy nhất đúng đắn để đánh đổ kẻ thù giai cấp và của dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân (đúng hơn là về tay một nhúm chóp bu trong đảng - NMC), bảo vệ chính quyền cách mạng, đưa cách mạng nước ta đến thắng lợi...“ (xem: Trường Chinh. „Ðời đời nhớ ơn Các Mác và đi con đường Các Mác đã vạch ra“. Hà Nội, 1969, tr.47-49). Trường Chinh nói những lời này trong dịp kỷ niệm 150 năm ngày sinh của K.Marx (1968), ngay sau vụ bắt bớ, giam cầm hàng loạt cán bộ đảng viên bất đồng với đường lối Mao-ít của hội nghị lần thứ 9 TƯ ÐCSVN. Bài nói của ông nói nhằm biểu thị thái độ của TƯ ÐCSVN chống đường lối của ÐCSLX và tỏ tình đoàn kết với phe Mao-ít trong ÐCSTQ, trước ngày Lưu Thiếu Kỳ đặt chân đến Hà Nội để mưu đồ tạo thế liên kết Trung - Việt chống Liên Xô. Những lời lẽ đó phản ánh đúng thực chất tư tưởng của các lãnh tụ cộng sản Việt Nam - đầu óc sùng bái bạo lực rất nặng, không chỉ khi cướp chính quyền và giữ chính quyền, mà cả khi xây dựng „xã hội mới“.
Ðể hiểu rõ hơn thực chất của ÐCS là „một hội kín của những kẻ âm mưu“, xin hãy nhìn lại lịch sử ngay từ thời kỳ thành lập đảng. Hồi năm 1929, ở Việt Nam đã có những tổ chức cộng sản xin gia nhập QTCS, đó là Việt Nam cách mạng thanh niên đồng chí hội và Tân Việt. Nhưng QTCS cho rằng những tổ chức đó chưa đủ tiêu chuẩn ÐCS và đã chỉ thị cho những tổ chức đó phải làm thế nào để trở thành ÐCS. Sau đó, cũng trong năm 1929, từ các tổ chức nói trên đã xuất hiện ba ÐCS - Ðông Dương cộng sản đảng, An Nam cộng sản đảng và Ðông Dương cộng sản liên đoàn. Cả ba tổ chức đó đều tự xưng là cộng sản nhưng lại kình chống nhau kịch liệt. QTCS bèn chỉ thị cho ba ÐCS đó phải thống nhất lại. Ngày 6 tháng 1 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc lấy danh nghĩa phái viên của QTCS mời đại biểu ba đảng đến Hồng Kông họp để thống nhất. Cuộc họp diễn ra trên sân bóng, các đại biểu giả vờ là khán giả xem bóng đá để họp. Có ba người đến họp: Trịnh Ðịnh Cửu, đại biểu cho Ðông Dương cộng sản đảng, Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm, đại biểu cho An Nam cộng sản đảng (xem: Trần Văn Giàu. „Giai cấp công nhân Việt Nam“. Hà Nội, 1958, tr. 487). Như vậy là không có mặt Ðông Dương cộng sản liên đoàn. Hội nghị quyết định thống nhất ba đảng, kể cả đảng bộ cộng sản của Hoa kiều, thành một đảng, lấy tên là Ðảng cộng sản Việt Nam, chỉ định trung ương đảng chín người. Từ đó, TƯ ÐCSVN coi ngày 6 tháng 1 là ngày thành lập ÐCSVN. Trong suốt 30 năm, hàng năm vẫn lấy ngày 6 tháng 1 để kỷ niệm thành lập đảng thì đùng một cái, đến đại hội 3 của ÐCSVN (1960), BCT TƯ đề nghị đại hội thông qua quyết định thay đổi lại ngày thành lập ÐCSVN là ngày 3.2.1930, lấy lý do „các đồng chí Liên Xô cho biết ngày đó mới đúng theo tài liệu lưu trữ của Liên Xô“. Tại đại hội, một đại biểu (Lê Minh) lên phản bác đề nghị thay đổi ngày thành lập đảng, thì Hồ Chí Minh ngồi trên chủ tịch đoàn gạt phăng, không cho thảo luận. Thế là đại hội thông qua việc thay đổi lại ngày sinh của ÐCSVN.
Nhân thể xin nói thêm. Cuộc họp diễn ra trên sân bóng ở Hồng Kông được nói đi nói lại nhiều lần trong ba bốn thập niên ròng cứ mỗi dịp kỷ niệm thành lập đảng. Thế nhưng, đến những năm 80, chắc thấy cuộc họp trên sân bóng có vẻ lén lút như cuộc gặp mặt của những kẻ âm mưu, nên người ta đã „viết lại“ sử đảng: „Sau 5 ngày làm việc hết sức khẩn trương (từ 3 đến 7 tháng 2) trong hoàn cảnh bí mật, hội nghị đã nhất trí tán thành thống nhất các đảng cộng sản...“ (xem: „Lịch sử Ðảng cộng sản Việt Nam“. NXB Sự thật, 1985, tr.27).
Những chuyện đại loại như thế có nhiều trong lịch sử ÐCSVN làm nổi bật tính chất „lèm nhèm“, không đàng hoàng của một hội kín của những kẻ âm mưu.