mardi 25 octobre 2011

CUỘC CHIẾN TRANH, HỒ CHÍ MINH ĐÁNH DÂN TỘC – P16

 

Từ Paris Võ Văn Ái nhận xét

Từ nguồn Gió-o, bài phỏng vấn nhà thơ Thi Vũ Võ Văn Ái, lãnh tụ trí thức đấu tranh Nhân quyền số một ở hải ngoại, do Lê Thị Huệ thực hiện ngày 1-11-2009:
Lê Thị Huệ: Ông có thể khai triển rõ hơn về phe phản chiến do Liên Xô điều động?
Võ Văn Ái: Trong thế giới có phong trào này phong trào kia phát động. Nhìn từ bên ngoài là sự tự phát, nhưng từ cơ bản đa số do các khuynh hướng chính trị hay đảng phái giật dây. Phong trào phản chiến hay phong trào hòa bình hồi đó cũng vậy. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam thời ấy, Hà Nội được Mạc Tư Khoa hậu thuẫn, nên Liên Xô thông qua các đảng địa phương ở Âu Châu phát động rầm rộ một phong trào rộng lớn ủng hộ cho “Hòa bình Việt Nam”. Nói là hòa bình Việt Nam, nhưng kỳ thực là ủng hộ cuộc chiến tranh do Hà Nội chủ súy. Phe Cộng sản quốc tế bỏ tiền mua các cơ quan truyền thông, báo chí, kích động các phong trào quần chúng, đặc biệt giới sinh viên đại học xuống đường kêu gọi “Hòa bình Chống Mỹ.

Vung mã tấu chặt ngón tay em học sinh nhỏ nhất

Vào một ngày trong niên học 1961-1962, trong địa hạt tỉnh An Xuyên, “Việt Cộng đã chận các em học sinh đang đi đến trường, chọn một em nhỏ nhất trong nhóm rồi vung mã tấu chặt đứt một ngón tay của em và hăm dọa nếu còn tiếp tục đến trường thì các em sẽ chịu hình phạt như thế!”(Trích bài Liên Hoa của tác giả Phan Thịnh, Nguyệt san Làng Văn số 203 tháng 7-2000, trang 26).
Nhóm Việt Cộng đó muốn gì? Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam muốn gì? Lúc đó Hồ Chí Minh ở Bắc Bộ phủ muốn gì? Tại sao lại lựa em bé nhỏ nhất để chặt ngón tay? Tại sao lại cấm học sinh đi học? Nếu thật tâm vì chính nghĩa cao đẹp Giải phóng Miền Nam khỏi ách kềm kẹp của Mỹ Ngụy thì tại sao Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản lại xử dụng phương cách hèn hạ tàn nhẫn đối với trẻ thơ như vậy? Với những câu hỏi Tại sao? dồn dập như trên, câu trả lời chỉ có thể là Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản đã chiếm đoạt được miền Bắc rồi, không lo xây dựng phát triển miền Bắc, mà chỉ lo tiếp tục gây chiến để cướp đoạt miền Nam cho kỳ được, không từ nan bất cứ hành động khủng bố đê hèn nào! Tác giả Phan Thịnh kể thêm rằng: “Toàn tỉnh An Xuyên, số học sinh bị sút giảm 20.000 em, 150 trường học phải đóng cửa, khoảng hơn 60 giáo viên bị bắt cóc hoặc bị giết! Trong niên học đó, trên toàn lãnh thổ miền Nam đã có đến 630 trường học phải đóng cửa vì sách lược khủng bố này”.
Sách lược khủng bố giáo viên và học sinh kể trên gây những hậu quả thảm khốc như thế, đến nỗi Hiệp hội các Tổ chức Sư phạm Thế giới (World Confederation of Organizations of the Teaching Profession) đã phải cử một phái đoàn đến miền Nam Việt Nam để điều tra. Bài viết của ký giả John B. Hubbell tường trình sự việc trên được đăng tải trên Reader’s Digest (số tháng 11-1968) và thành đề tài cho Phan Thịnh viết bài Liên Hoa nói trên.

Chặt hai bàn tay em bé 7 tuổi

Cũng từ bài viết đăng trên số Reader’s Digest đó của k ‎‎ý giả John B. Hubbell, bài được Trung tướng TQLC Lewis Walt giới thiệu, chúng ta đọc thêm được tội ác kinh hoàng của Việt Cộng như sau (Bài do anh Thuận một độc giả ở Queensland gởi Diễn đàn độc giả của Tuần báo Saigon Times ngày 28-10-2004):
Viên xã trưởng cùng với bà vợ như người điên cuồng, vì một trong các đứa con của họ, một bé trai mới 7 tuổi, đã bị mất tích từ bốn ngày rồi. Họ tìm đến Trung tướng Lewis W. Walt để cầu cứu vì tin rằng đứa bé đã bị VC bắt cóc.”
“Rồi đột nhiên, thằng bé thoát ra khỏi rừng, chạy băng qua các đồng lúa để trở về làng. Thằng bé vừa chạy vừa khóc. Mẹ nó vội chạy ra, ôm nó vào lòng, và đau xót kinh hoàng khi thấy cả hai bàn tay đứa nhỏ bị chặt đứt và trên cổ nó có đeo một cái bảng, ghi những dòng chữ cảnh cáo cho cha nó.”
Thì ra VC muốn phá bỏ kỳ bầu cử sắp sửa diễn ra của VNCH nên mới cảnh cáo ông xã trưởng, hay bất kỳ người nào trong làng, cả gan đi bỏ phiếu, ông sẽ chịu những điều tệ hại hơn nữa cho những đứa con còn lại của ông ta.

Ném lựu đạn vào đêm lửa trại học sinh Qui Nhơn

Vào một đêm năm 1972, tại sân vận động Qui Nhơn, trong khi học sinh và hướng đạo sinh trường trung học Cường Để đang vui vầy với lửa trại thì tên Việt Cộng nằm vùng là Vũ Hoàng Hà quăng lựu đạn vào đám lửa trại để tàn sát những học sinh và nhà giáo trong tay không một tấc sắt! Cuộc thảm sát gây 14 học sinh bị mất mạng và một số bị thương. Cô giáo sư Pháp văn Đặng Thị Bạch Yến, có giọng ca thật điêu luyện như ca sĩ chuyên nghiệp, đến để vui lửa trại với các em trại sinh, bị chết ngay tức khắc. Cô chết đi tuổi chỉ vừa 30, để lại ba đứa con 4 tuổi, 2 tuổi và 1 tuổi mồ côi mẹ. Chồng cô là Giáo sư Anh văn Tạ Quang Khánh bị thương nặng. Khi xe cứu thương đến, ông chân bước lên xe, tay ôm mớ ruột bị lòi ra ngoài, thân mang đầy vết lựu đạn!
Một nhân chứng cho biết thủ phạm Vũ Hoàng Hà leo qua nấp ở chùa Long Khánh và được cơ sở nằm vùng của Mặt trận Giải phóng Miền Nam đưa vào mật khu lẩn trốn. Sau khi chiến thắng miền Nam, Vũ Hoàng Hà được phong Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Định kiêm Ủy viên Trung ương Đảng. Mãi sau này, các báo Việt Cộng đổ vấy rằng vụ thảm sát đó là do nhóm Fulro của Đồng bào Thượng gây ra!
Ba đứa trẻ mồ côi mẹ năm 1972, thì chỉ 5 năm sau lại mang tang cha. Vết thương quá nặng, Giáo sư Tạ Quang Khánh không sống sót được 10 năm theo lời dự đoán của các Bác sĩ điều trị! Nhưng trời cao có mắt. Câu chuyện có hậu. Ba đứa trẻ mồ côi vì sự tàn ác của Việt Cộng năm nào thì bây giờ trở thành những công dân tốt phục vụ cho một xã hội đầy tình người đã giúp đỡ và cưu mang chúng. Tạ Quang Khôi và Tạ Quang Khiêm là kỹ sư điện (EE) và cô em út trong nhà là Tạ Thị Ngân Hà, bị mồ côi mẹ lúc 1 tuổi, trở thành bác sĩ nội khoa phục vụ tại bệnh viện Oklahoma, Hoa Kỳ. Câu chuyện do Giáo sư Nguyễn Lý Tưởng tường thuật, ông là bạn học tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế đồng khóa với vợ chồng Giáo sư Tạ Quang Khánh (Theo nguồn tin: Vietnam Library Net).

Pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy

Ngày 9-3-1973, một ngày đầy máu và nước mắt đến với trường tiểu học Cai Lậy, tỉnh Định Tường. Thủ phạm là Mặt trận Giải phóng Miền Nam đã dùng súng cối 82 ly, do Trung Cộng sản xuất, bắn vào trường vào lúc 12g55’. Số thương vong theo Tướng Lâm Quang Thi trong quyển The death of South Vietnam: an autopsy (xuất bản năm 1986) là 34 em chết và 70 bị thương, theo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ: 32 tử vong và 55 bị thương.
Cuộc thảm sát ở Cai lậy gây thương cảm khắp nơi. Khắp miền Nam, lễ tưởng niệm và lạc quyên được tổ chức để an ủi và giúp đỡ gia đình bị nạn. Nhạc sĩ Anh Bằng viết bài nhạc khóc các em học sinh Cai Lậy có những câu như sau: “Hỡi Bé thơ ơi, sao tội tình gì Em lại bỏ đi, Em lại bỏ đi? Kìa thầy giảng bài tình thương trong lớp. Bạn bè cùng ngồi chăm chỉ lắng nghe. Sao Em vội bỏ mái trường ngày xưa thân mến, vội bỏ ra đi?

Tội ác bỏ đói dân để lùa thanh niên vào bộ đội

Câu chuyện giữa 2 người tù, một già một trẻ, do Ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện thuật lại trong quyển Hỏa Lò (trang 277). Người tù trẻ thuộc thế hệ thiếu nhi sống dưới chế độ hộ khẩu của Hồ Chí Minh. Quê anh ở Thái Bình, mang tiếng là vựa thóc, là “Quê hương năm tấn”, nhưng đói lắm. Bình quân, mỗi đầu người hàng tháng chỉ được 9 cân gạo, nên anh ta bị đói từ lúc còn bé. Đến 17 tuổi, anh phải khai man thành 18 để được vào bộ đội. Cuộc đối thoại như sau:
- Thế mày trúng tuyển bộ đội ngay?
- Vâng, được biết trúng tuyển, con mừng hơn mẹ con sống lại. Thế là hết cảnh đói mòn, đói mỏi. Mấy đứa gầy yếu quá bị loại, buồn như cha chết. Có đứa khóc.
- Hồi đó, chúng mày có biết đi B, chết rất nhiều không?
- Chúng con biết chứ. Trai làng bao đứa đã vong mạng. Hai thằng em họ con cũng đã chết ở Khe Sanh.
- Chúng mày không sợ chết à?
- Chẳng đứa nào sợ cả. Cái đói triền miên đáng sợ hơn nhiều. Bố bảo, đi bộ đội, chết chưa thấy đâu, đã thấy no trước mắt. Hai mốt cân gạo, một cân rưỡi thịt, một cân đường, mỗi tháng. Nghe trên thông báo tiêu chuẩn đó, chúng con thèm rỏ rớt, rỏ dãi.
Cứ như là giấc mơ ấy. Chiến đấu dũng cảm được thăng chức lên sĩ quan. Tiêu chuẩn còn cao hơn nữa. Hơn đi thanh niên xung phong nhiều.
Thiên đường XHCN của Hồ Chí Minh rất cần được đối chiếu với đời sống công nhân trong các nước tư bản mà Cộng sản luôn luôn mạt sát là bóc lột công nhân. Không cần đi đâu cho xa, bên nước láng giềng Campuchia, tác giả Nguyễn Văn Khậy trong quyển Kampuchia trong bối cảnh chiến tranh Đông Dương đãdiễn tả cảnh sống sung túc của công nhân đồn điền cao su Krek sau năm 1945, khi Đồng Minh thắng Nhật và người chủ Pháp bị Nhật giam trước đây được thả về để cai quản đồn điền. Tác giả Nguyễn Văn Khậy viết (trang 361 sđd):
Từ đây cách đối xử với công nhân có chiều tiến bộ hơn so với những năm về trước. Đầu tiên, công nhân được giảm bớt 1/3 số cây cao su được cạo trong ngày, tăng lương, nhà thương có bác sỹ với thuốc men đầy đủ, chăm sóc kỹ lưỡng. Lương tiền phát đầy đủ hơn, nhất là đồn điền phụ trách bán các thứ vải, giày, xe đạp, vỏ xe đạp… thêm vào đó thực phẩm, thịt heo, thịt bò và vô số nhu yếu khác, bán chịu, bán thiếu cho công nhân được khấu trừ vào lương cuối tháng, giá rẻ hơn ngoài thị trường 30%. Đặc biệt cung cấp gạo hoàn toàn miễn phí cho công nhân kể cả gia đình theo tiêu chuẩn người lớn 800 gr, trẻ em dưới 12 tuổi là 600 gr.
Đến đây, người viết có thắc mắc mới điện thoạihỏitác giả Nguyễn Văn Khậy (hiện an cư lập nghiệp ở Sydney) nếu người công nhân có vợ và nhiều con thì sao? Tác giả trả lời rằng:“Vợ và tất cả các con đều có tiêu chuẩn được phát gạo miễn phí, và thường thì công nhân dư gạo, mới đem số gạo dư ra ngoài đồn điền bán lại hoặc trao đổi lấy các món khác với người dân địa phương.

Những ngày tháng năm đẹp của thế kỷ

Lần giở lại những trang Hồi kýcủa nhạc sĩ Phạm Duy, người đã dinh tê về Hà Nội và sau đó vào Nam năm 1951, tức là 3 năm trước phong trào Di cư, nhà soạn nhạc tài ba ấy khi di tản ra nước ngoài mới tỏ ý hối tiếc rằng đã không hề trước tác một bài nhạc nào để ca ngợi thành phố Sài Gòn, nơi ông sống những ngày phong phú nhất đời ông. Xin trích Hồi ký Phạm Duy, thời phân chia Quốc Cộng(tr.399):
Hơn 20 năm sống ở Sài Gòn mà tôi không có một tiếng hát nào cho thành phố nơi tôi sống những ngày phong phú nhất đời mình. Sài Gòn không phải chỉ có con đường Duy Tân cây dài bóng mát để tôi đưa người tình đi học. Tuy cũng có Y Vân “Ghé bến Sài Gòn” để thấy Sài Gòn đẹp lắm, Sài Gòn ơi, Sài Gòn ơi... Và có thêm Hoàng Anh Tuấn cùng với Phạm Đình Chương nhìn mưa Sài Gòn để nhớ tới mưa Hà Nội (bản “Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội”)... nhưng nói chung, lũ nhạc sĩ chúng tôi rất vô ơn đối với Sài Gòn.”
Thật vậy, thành phố Sài Gòn đáng được ca ngợi! Sài Gòn ngày xưa vừa đẹp lại hiền! Miền Nam trù phú và đầy tình người là mảnh đất lành đáng sống thật! Và nhạc sĩ Phạm Duy lại viết tiếp lời an ủi: “Phải bỏ xứ ra đi, phải sống trong thành phố bị đổi tên, rồi mới hối hận để có khá nhiều nhạc sĩ lưu vong hay ở trong nước hối hả soạn ra sau ngày 30-4-75 những bài như “Sài Gòn ơi vĩnh biệt”, “Sài Gòn bây giờ buồn không em”, “Sài Gòn vĩnh biệt tình ta”, “Sài Gòn niềm nhớ không tên”, “Sài Gòn của tôi”, “Sài Gòn ôi thôi đã hết”… Con người là thế đó, có viên ngọc trong tay không biết giữ, mất rồi mới tiếc ngẩn tiếc ngơ!
Và những ngày tháng năm từ khi Cựu hoàng Bảo Đại về nước chấp chánh năm 1949 với danh vị Quốc trưởng, qua Đệ nhất Cộng hòa với Tổng thống Ngô Đình Diệm, và Đệ nhị Cộng hòa với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, cho đến ngày Quốc hận 30-4-1975, trong khoảng thời gian đó, chúng ta đếm được những ngày tháng năm đẹp nhất và đáng sống nhất của thế kỷ 20!
Chỉ riêng về môn túc cầu, những người ái mộ hẳn rất tự hào với thành tích của đội tuyển nhà trước 1975. Theo lời cựu tuyển thủ Nguyễn Văn Ngôn tức Ngôn 1 trả lời biên tập viên SS của tuần báo Sức sống tại Little Saigon (Số Xuân Tân Mùi 1991): “Nền túc cầu Việt Nam lớn mạnh nhứt vào năm 1964. Tôi còn nhớ, trong giải túc cầu thế giới Đội tuyển VN đã hạ đội Do Thái 2-0 tại Tel Aviv ở vòng loại. Và đến năm 1968 tại Thái Lan, tranh giải khu vực để đại diện Á Châu tham dự Thế vận hội, Đội tuyển VN đã hạ các nước Thái Lan, Đại Hàn, Mã Lai, Nam Dương. Rất tiếc, cũng năm đó vì tình trạng chiến tranh (Tết Mậu Thân) đã làm hỏng cơ hội tham dự Giải Thế vận tại Iran của đoàn tuyển thủ VN (sau đó đội Đại Hàn đứng thứ nhì bảng thay thế). Một thành tích khác cũng lừng lẫy là đoàn cầu VN đã mang về chiếc cúp vô địch Á Châu tranh tại Mã Lai: Đó là giải Merdeka 1966.

Việt Nam 50 năm trước và 50 năm sau 

Không phải như những báo cáo láo của Việt Cộng theo như nhận xét “3 chữ D: Dại Dốt Dối” của Giáo sư Phạm Thiều, bản thống kê về tình trạng kinh tế của Việt Nam 50 năm trước và 50 năm sau do học giả Đỗ Thông Minh ở Nhật sưu tầm (từ Economic Bulletin / Singapore ngày 14-4-2007 trang 738) đã trưng dẫn rất chính xác sự huy hoàng về kinh tế của miền đất phương Nam vào thời Đệ nhất Cộng hòa so sách với 35 năm sau dưới chế độ XHCN. Bản thống kê về Lợi tức Đầu người trong 50 năm qua như sau:
Năm 1956                    Năm 2006
Nhật                 215 đô                         30.000 đô
Đài Loan          121                              12.000
Mã Lai              246                              4.520
Thái Lan              64                                2.450
Indonesia             87                                1.150
Nam Việt Nam      144           Việt Nam    550
Bản thống kê nói lên sự phát triển kinh tế quá chậm theo kiểu kinh tế thị trường với định hướng XHCN của Việt Nam. Năm 1956, Việt Nam Cộng hòa của miền Nam hơn nhiều nước. Đến năm 2006, dưới sự điều hành của Đảng, CHXHCN Việt Nam đứng hạng chót và thua xa các nước lân bang. Than ôi! Thành tích của những Đỉnh cao Trí tuệ Loài người!
Gần đây nhất, nhân ngày 30-4-2008, từ Paris, Bùi Tín viết bài Giải phóng ư? Độc lập ư? Bài viết ngắn, lời văn tâm tình thật cảm động, Bùi Tín đã thật sự bước vào cuộc Đại đoàn viên của Dân tộc và trong tình thương yêu bao la đó, ông thốt lên những lời kêu gọi chân tình:
“Tôi bỏ hết danh vọng hão, chức tước phù du, huân chương mai mỉa, tự hổ thẹn từng cao ngạo vô duyên về chuyện vào Dinh Độc lập sớm, xế trưa ngày 30-4, vớ vẩn lạc điệu cả, cá nhân lầm lạc, ngộ nhận hết.
“Để làm gì cơ chứ? Để đất nước ra nông nổi này ư ? Độc lập, KHÔNG! Tự do, KHÔNG! Chủ quyền, KHÔNG! Về mặt nào Việt Nam cũng đứng dưới 100 nước khác!
“30 tháng 4 năm nay, tự thâm tâm, tôi chỉ có một lời kêu gọi với các bạn bè và đồng chí cũ của tôi, hãy qu ý trọng lòng yêu nước thương dân của chính mình. Bạn hãy tự phục hồi lòng yêu nước thương dân trọn vẹn của mình để cùng mọi người Việt Nam tỉnh táo và tử tế tranh đấu cho một Tổ quốc Việt Nam thật sự độc lập, thật sự tự do, dựa vững vào Lịch sử Dân tộc và Thời đại”. 

Miền Nam tiến thật xa trên lộ trình xây dựng dân chủ

Vào cuối thập niên 60, với sự điều hợp của Giáo sư Nguyễn Văn Bông cùng một số Dân biểu Hạ viện, Miền Nam đã thiết lập được Dự thảo Quy chế Đối lập. Đây là cái mốc thật quan trọng trên lộ trình xây dựng dân chủ Miền Nam đã đạt được. Một điểm son rực rỡ đáng được ghi vào lịch sử Dân tộc, nhất là vào lúc đó Miền Bắc tung hết sức mạnh quân sự và tuyên truyền để đánh chiếm Miền Nam cho kỳ được, không từ nan bất cứ một hành động khủng bố và tuyên truyền xảo quyệt nào. Xin mở ngoặc để viết đôi dòng về Giáo sư Nguyễn Văn Bông. Ông sinh năm 1929 tại làng Kiểng Phước thuộc miền duyên hải của tỉnh Gò Công ngày xưa. Ông nội làm nghề thợ bạc, cha làm thợ sửa xe đạp. Ông nhà nghèo nhưng may mắn nhận được học bổng để học trường Trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ. Rồi ông sang Pháp du học bằng vé tàu hạng chót nằm dưới boong tàu. Đến Pháp, ông vừa làm vừa học, lần lược đậu Tú tài, Cử nhân, và đến năm 1960 ông đậu Tiến sĩ Luật khoa. Ba năm sau, Nguyễn Văn Bông tạo thành tích trong lịch sử sinh viên du học vang danh là người Việt Nam đầu tiên đậu bằng thạc sĩ Công pháp Quốc tế. Ông được mời về nước dạy tại Đại học Luật khoa. Đến 1964, ông được cử vào chức Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh. Ông đã góp phần rất lớn trong việc đào tạo một thế hệ cán bộ hành chánh tài ba cho Đất nước. Chế độ Miền Nam, với Dự thảo Quy chế Đối lập, đã tiến thật xa trên lộ trình xây dựng dân chủ.
Giáo sư Nguyễn Văn Bông, người chiến sĩ tài ba xây dựng dân chủ cho Dân tộc, đáng buồn thay, đảng Cộng sản lại xem là kẻ thù cần phải tiêu diệt! Chúng đã âm mưu sát hại Giáo sư 3 lần, đến lần thứ ba mới thành công! Ngày 10-11-1971, lúc 12 giờ trưa, Giáo sư bị Việt Cộng giết bằng chất nổ quăng vào dưới xe của ông khi ông đang trên đường từ Học viện về nhà. Ngọn lửa thiêng Dân tộc được thắp sáng từ thời Trưng Triệu xa xưa tạo thành Hồn thiêng Sông núi, từ nay với anh linh của Giáo sư Nguyễn Văn Bông hòa nhập vào, xin hãy soi đường dẫn lối cho du sinh Việt Nam học thành tài về nước xây dựng nền dân chủ tiến bộ và tránh xa chế độ Cộng sản độc tài sở trường dùng khủng bố giết người bịt miệng để cai trị. Đến bây giờ là Mùa Bịt miệng 2007, đảng Cộng sản vẫn còn lúng ta lúng túng với chế độ độc tài đảng trị không chấp nhận đối lập, làm chủ tất cả các báo và đài để giết tự do ngôn luận, thành lập Giáo hội Quốc doanh để giết tự do tín ngưỡng, thành lập Nghiệp đoàn Quốc doanh đứng về phía Tư bản nước ngoài để bóc lột công nhân Việt Nam… Bức màn sắt, Bức màn tre, Bức tường ô nhục Bá Linh vang bóng một thời xa xưa thì nay đã bị dẹp bỏ và vất vào sọt rác lịch sử rồi. Nhưng Bắc Bộ phủ của đảng Cộng sản Việt Nam, đi ngược chiều lịch sử, lại thiết lập Bức tường lửa để ngăn chận thông tin điện tử từ thế giới bên ngoài, và buông thả công an đi khắp nơi để đàn áp Dân tộc vô cùng thô bạo! Cứ mãi bịt mắt, bịt tai, bịt miệng Dân tộc mà cứ tự đề cao là “Cách mạng”!

Tình người của miền đất Phương Nam

Người cán bộ văn hoá vận Vũ Hạnh của đảng Cộng sản đã có phúc duyên được sống để nằm vùng trọn vẹn ở miền Nam trong những ngày tháng năm đẹp đó. Xin nhắc lại đôi dòng về Vũ Hạnh. Nhà văn sinh năm 1926 tại Thăng Bình, Đà Nẵng, theo Cộng sản từ năm 1945, sau hiệp định Genève, ông được phân công nằm vùng ở miền Nam. Ông là tác giả nhiều tác phẩm nghiên cứu như Đọc lại truyện Kiều, Tìm hiểu Văn nghệ, truyện dài Chất ngọc, Cú đấm, vân vân... nhưng nổi tiếng nhất là quyển Người Việt cao quý ẩn dưới bút danh A. Pazzi. Nhiều lần bị chế độ Sài Gòn bắt bỏ tù vì chống lại bằng tác phẩm và hành động. Tuy vậy, Vũ Hạnh cũng được nhiều người giúp đỡ và bảo lãnh như các linh mục Chân Tín và Thanh Lãng. Cả đến văn thi sĩ Hà Thượng Nhân, tức là trung tá Phạm Xuân Ninh, lúc phụ trách ngành tâm lý chiến về các lãnh vực Chính huấn, Phát thanh và Báo chí cũng vì tấm lòng thơ mà tế độ nhiều lần cho Vũ Hạnh. Trong quyển Quê hương bạn hữu tù đầycủa Trần Dạ Từ, chúng ta được biết thêm về Vũ Hạnh như sau:
Vũ Hạnh thời trước, viết phê bình văn nghệ cho báo Bách Khoa theo lối hiện thực xã hội kiểu Cộng sản, rồi nằm trong tờ Điện Tín của nhóm Lý Quý Chung, chuyên viết những chuyện kháng chiến đường rừng. Báo Sống của anh Chu Tử có hồi chỉ đích danh Vũ Hạnh là Cộng sản nằm vùng.”