mercredi 19 octobre 2011

Đảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến Động Trong Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế . (1)
( Nguyễn Minh Cần )

Giới Thiệu Về Tác Giả
Ông Nguyễn Minh Cần sinh năm 1928 tại Huế. Ông tham gia kháng chiến trước tháng 8 năm 1945 khi còn là học sinh ở Huế. Năm 1946, ông là đảng viên Đảng Cộng Sản Đông Dương, và hoạt động ở Thừa Thiên với chức vụ Ủy Viên Thường Vụ Tỉnh Ủy Thừa Thiên.
Sau đó, ông hoạt động bí mật tại Hà Nội từ năm 1951. Từ tháng 10 năm 1954 đến 1962 ông làm Ủy viên thường vụ Thành ủy Hà Nội, Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội, chủ nhiệm báo Thủ đô Hà Nội. Năm 1962 ông được đảng Lao động Việt Nam (nay là đảng CSViệt Nam) cử đi học trường Ðảng Cao cấp tại Liên Xô.
Trong thời gian này, phe Lê Duẫn và Lê Ðức Thọ, lúc đó ngả theo đường lối chống Liên Xô của đảng CS Trung Quốc, đã mở một chiến dịch truy bức quy mô nhằm thanh toán những người mà họ cho là có tư tưởng theo chủ nghĩa xét lại của Liên Xô. Nhiều đảng viên và ngay cả những trí thức không dính dáng gì đến đảng Lao động Việt Nam cũng bị hãm hại một cách đê tiện. Trước tình hình đó, ông Nguyễn Minh Cần và một số đảng viên cao cấp khác của đảng Lao động Việt Nam đã quyết định xin tỵ nạn chính trị tại Liên Xô. Mặc dù Liên Xô đã từ chối lời yêu cầu của Việt Nam và không giao trả ông cho Việt Nam nhưng đã bắt ông không được phép hoạt động chính trị nữa và phải đổi cả tên họ (thành tên Nga) để bảo toàn an ninh. Vợ và các con của ông ở Việt Nam bỗng nhiên trở thành nạn nhân của chính sách trả thù hèn hạ của tập đoàn thống trị CS Việt Nam.
Từ năm 1989 ông Nguyễn Minh Cần đã tham gia tích cực vào "Phong trào nước Nga Dân chủ", một phong trào vận động dân chủ lớn tại Nga. Cùng với người vợ Nga, ông Nguyễn Minh Cần đã tham gia vào chiến dịch bảo vệ Tòa Nhà trắng của Phong trào và phá vỡ cuộc đảo chánh của phe nhóm CS tại Nga vào tháng 8 năm 1991. Ông Nguyện Minh Cần hiện đã về hưu. Phần lớn thời giờ ông dành để nghiên cứu Phật học và viết các bài nghiên cứu chính trị. Ông hiện là một nhân sĩ và là một cây bút quen thuộc và được quí mến ở Mỹ và Âu Châu. Quyển sách "Công lý đòi hỏi" (nhà xuất bản Văn Nghệ, California, 1998) là tập hợp những bài viết của ông từ 1992đến 1998.
Tác phẩm thứ hai sắp được xuất bản tác giả Nguyễn Minh cần là quyển sách "Ðảng Cộng sản Việt Nam qua những biến động trong phong trào cộng sản quốc tế". Ðiểm đặc biệt là quyển sách được viết dựa trên những nhận thức mới, nhờ tác giả được vào tham khảo tại Kho Lưu trữ của Quốc tế Cộng sản tại Moskva, nay là Trung tâm Lưu trữ Văn kiện Lịch sử Hiện đại (RSKHIDNI). 

>>> Đảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến Động Trong Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế . <<<
Ðảng cộng sản Việt Nam (ÐCSVN) qua những biến động trong phong trào cộng sản quốc tế (PTCSQT) là một đề tài khá rộng. Việc nghiên cứu kỹ đề tài này có thể giúp ta hiểu được nhiều vấn đề thuộc về quá khứ không xa, cũng như hiện tại và tương lai của đất nước. Ðể có thể có cái nhìn bao quát giúp cho việc nghiên cứu được sâu, người viết xin trình bày theo trình tự sau đây:
Ðôi điều về đảng cộng sản (ÐCS) và PTCSQT,
Ðôi điều về ÐCSVN,
Những thời kỳ biến động lớn nhất trong lịch sử PTCSQT,
ÐCSVN qua những biến động đó.
Những vấn đề này liên quan chặt chẽ với nhau. Có hiểu được thực chất của ÐCS nói chung và PTCSQT thì dễ dàng nắm bắt được những đặc điểm chính của ÐCSVN, và khi biết rõ những đặc điểm đó rồi thì dễ dàng hiểu được thái độ của ÐCSVN trước những biến động lớn trong PTCSQT, và nhất là hiểu được thái độ của ÐCSVN trong tình hình hiện nay trước xu thế chung của thời đại, đồng thời có thể dự đoán phần nào sự chuyển biến tình hình đất nước trong tương laị
Ðây là một bài có tính chất nghiên cứu, nên người viết chủ yếu dựa trên sự kiện thực tế và trình bày thẳng thắn, không thêm bớt, không thiên vị để bảo đảm tính khách quan.
Nhận thức rằng những điều trình bày dưới đây mới chỉ là nét phác họa chưa đầy đủ, sức của người viết thì có hạn, mà đề tài lại lớn cần có sự nghiên cứu sâu hơn và kỹ hơn của nhiều người, nên mong mỏi và hoan nghênh các nhà nghiên cứu cùng các bạn đọc góp sức, góp ý để vấn đề được sáng tỏ thêm. Người viết sẵn sàng đón nhận với lòng biết ơn mọi ý kiến phê bình xây dư.ng.

I. ĐÔI ĐIỀU VỀ ÐCS VÀ PTCSQT
Trước hết, cần biết qua quan điểm của các lãnh tụ cộng sản Marx, Engels, Lenin, Stalin và Mao Trạch Ðông về ÐCS, cũng như thực tiễn xây dựng đảng của họ, để dễ hiểu về ÐCSVN, vì xưa nay những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam đều coi quan điểm lý luận của các lãnh tụ đó là „kim chỉ nam cho hành động“ của họ, còn các Ðảng cộng sản Liên Xô (ÐCSLX), Trung Quốc (ÐCSTQ) là khuôn mẫu để họ rập theo xây dựng ÐCSVN.
A. Quan điểm của Marx-Engels về ÐCS
Khi nghiên cứu xã hội tư bản, Karl Marx và Fredrich Engels cho rằng cuộc cách mạng công nghiệp ở các nước Âu Mỹ đã sinh ra giai cấp vô sản, lực lượng xã hội chủ yếu tạo ra mọi của cải vật chất của xã hội tư bản chủ nghĩa. Trong quá trình sản xuất, giai cấp vô sản tạo ra giá trị và giá trị thặng dư, và giai cấp tư bản ăn bám đã chiếm đoạt thứ giá trị thặng dư này để trở nên giàu có. Toàn bộ quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho giai cấp vô sản, nhất là vô sản công nghiệp, trở thành giai cấp tiên tiến nhất, có tổ chức nhất, cách mạng triệt để nhất, nó là giai cấp lãnh đạo cách mạng vô sản, nó sẽ là kẻ đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản và xây dựng nên xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Muốn làm được nhiệm vụ lịch sử đó, theo Marx và Engels, thì „phải tổ chức những người vô sản thành giai cấp (ý nói phải tổ chức đảng của vô sản - NMC), lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền“ (xem: „Tuyên ngôn của Ðảng cộng sản“. NXB Sự Thật, Hà Nội, 1983, tr.66).
Trong bài này, chúng tôi không muốn bàn nhiều đến sai lầm trong luận điểm của Marx và Engels về vai trò của giai cấp vô sản trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, cũng như vai trò lãnh đạo của giai cấp đó trong xã hội, vì đề tài đó thuộc một vấn đề khác rộng hơn. Nhưng vì luận điểm đó là cơ sở đặt nền móng cho toàn bộ học thuyết của hai ông, trong đó có lý luận về đảng của giai cấp vô sản, nên buộc lòng cũng phải nói qua. Luận điểm trên của Marx và Engels về vai trò của giai cấp vô sản là dựa trên sự phân tích xã hội tư bản được trình bày một cách thiên lệch trong bộ „Tư bản“ của Marx. Vì tác giả của nó muốn đề cao vai trò của giai cấp vô sản, nên khi trình bày về kinh tế tư bản chủ nghĩa đã cố tình chỉ nhấn mạnh đến đến vai trò lao động, chủ yếu bằng chân tay, của giai cấp vô sản trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa nói chung, cũng như trong sự cấu thành giá trị và giá trị thặng dư nói riêng, mà coi nhẹ hoặc không đếm xỉa đến thứ lao động quan trọng nhất, quyết định nhất là lao động bằng trí tuệ của tầng lớp trí thức, nhất là trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật, tức là lớp người tạo nên nền sản xuất với kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, và của tầng lớp quản lý, tức là lớp người điều khiển, vận hành toàn bộ nền sản xuất phức tạp đó, trong việc này có cả phần đóng góp của giai cấp tư bản. Do phương pháp luận không khách quan đó, nên Marx đã rút ra những kết luận sai lầm. Thực tiễn thế giới ngay giữa thế kỷ 20 đã hoàn toàn bác bỏ những kết luận của Marx về vai trò của giai cấp vô sản trong xã hội, bác bỏ những điều khẳng định về những tính chất „tiên tiến nhất, có tổ chức nhất, cách mạng triệt để nhất“ của giai cấp này. Còn đến cuối thế kỷ 20, khi nền kinh tế toàn cầu hóa, cuộc cách mạng tin học tiến mạnh, kinh tế tri thức nở rộ thì chẳng còn mấy ai tin vào những kết luận đó nữa. Thế mà, Marx và Engels dựa trên những kết luận sai lầm đó, đã đưa ra trong „Tuyên ngôn của Ðảng cộng sản“ (năm 1848) quan niệm về đảng của những người cộng sản và nhiệm vụ xây dựng xã hội cộng sản của giai cấp vô sản.
Công bằng mà nói, trong các tác phẩm của mình, hai ông thường nhấn mạnh: cách mạng vô sản chỉ có thể tiến hành ở các nước công nghiệp phát triển, nghĩa là những nước thực sự có giai cấp vô sản, và ÐCS phải thực sự là „đảng của giai cấp vô sản“ mang tính chất vô sản. Sở dĩ phải nhấn mạnh như thế vì hai ông phòng trước: nếu không có điều kiện căn bản đó, ÐCS sẽ là đảng của lớp nghèo không phải vô sản, „lớp đáy“ của xã hội, mà Marx gọi là „lumpen-proletariat“ (vô sản áo rách, vô sản lưu manh), sẽ mang nặng tính chất của các tầng lớp đó và vì thế sẽ làm sai mục tiêu của cách mạng vô sản. Về sau, Lenin và phe cánh của ông ta tự cho mình phát triển chủ nghĩa Marx thì lại coi nhẹ điều này, ôngï cho rằng cách mạng vô sản có thể diễn ra ở các nước công nghiệp kém phát triển, nơi đang là khâu yếu nhất của chủ nghĩa tư bản. Thậm chí Lenin và phe cánh còn cho rằng những nước chưa qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản cũng có thể làm cách mạng vô sản miễn là họ nhận được sự giúp đỡ của một nước mà ÐCS nắm chuyên chính vô sản.
Nếu nghiên cứu kỹ thì có thể dễ dàng nhận thấy một số quan điểm căn bản về ÐCS của Marx và Engels ghi trong „Tuyên ngôn của Ðảng cộng sản“ khác với quan niệm và thực hành của Lenin và những lãnh tụ cộng sản khác trong thế kỷ 20. Có những điều hai ông đã viết ra rất ít được những người theo chủ nghĩa Lenin sau này nhắc tới hoặc đem ra bình luận. Vì thế, xin dẫn ra ở đây vài đoạn đáng chú ý trong „Tuyên ngôn của Ðảng cộng sản“:
„... về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước...“ (Sđd, tr.66)...
„Những người cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, đối lập với các đảng công nhân khác“ (Sđd, tr.65)...
„Họ không đặt ra những nguyên tắc phe phái nhằm khuôn phong trào công nhân theo những nguyên tắc ấỵ
Những người cộng sản chỉ khác với các đảng vô sản khác trên hai điểm: một là, trong các cuộc đấu tranh của những người vô sản thuộc các dân tộc khác nhau, họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc mà chung cho toàn thể giai cấp vô sản; hai là, trong các giai đoạn khác nhau của cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư sản, họ luôn luôn đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào“ (Sđd, tr.65).
Qua những điều đó thấy rõ rằng, khi đặt cho đảng của giai cấp vô sản nhiệm vụ làm cách mạng vô sản đánh đổ chế độ tư bản chủ nghĩa bằng bạo lực, rồi dùng chuyên chính vô sản để tiêu diệt giai cấp tư bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản, Marx và Engels quan niệm ÐCS là một tổ chức xã hội, chứ không phải là một hội kín của những kẻ âm mưu. Cứ nhìn các đảng vô sản dưới thời hai ông, chẳng hạn, công đảng, đảng xã hội chủ nghĩa, đảng xã hô.iđân chủ... thì thấy rõ điều này. Marx và Engels quan niệm một nền chính trị, trong đó giai cấp vô sản có nhiều đảng, chứ không phải một ÐCS duy nhất. Dĩ nhiên, không thể coi đây đã là nền chính trị đa nguyên, đa đảng theo quan niệm dân chủ hiện thời, vì hai ông chỉ nói đến „các đảng công nhân khác“ mà thôi. Hai ông không quan niệm ÐCS là một tổ chức cao nhất đứng trên các đảng vô sản khác, có độc quyền lãnh đạo hay độc tôn thống trị các đảng và các tổ chức vô sản khác, như Lenin, Stalin và Mao Trạch Ðông về sau đã chủ trương. Ðiều đáng chú ý nữa là Marx và Engels luôn luôn đề cao chủ nghĩa quốc tế, hai ông nhấn mạnh trong bất cứ trường hợp nào ÐCS không được lấy quyền lợi dân tộc làm gốc mà phải lấy chủ nghĩa quốc tế làm căn bản. Ðiều này thì càng về sau, các ÐCS hoặc chỉ nói mà không làm, hoặc chỉ lợi dụng chiêu bài chủ nghĩa quốc tế vô sản để che đậy cho quyền lợi tập đoàn của ho..
Về mặt thực hành quan điểm của hai ông về đảng, Marx và Engels đã lập ra hồi năm 1864 „Liên minh công nhân quốc tế“ (sau này được mệnh danh là Ðệ Nhất Quốc tế), với số phân bộ không nhiều, phần lớn ở châu Âu. Trước đó, Marx và Engels cũng lập ra „Liên đoàn những người cộng sản“, nhưng trên thực tế cả tổ chức này cũng không có hoạt động gì nổi bật, ngoài việc ra „Tuyên ngôn của Ðảng cộng sản“. Do cuộc đấu tranh giữa các khuynh hướng trong nội bộ „Liên minh công nhân quốc tế“, tổ chức này dần dần tan rã, và năm 1876 tuyên bố tự giải tán. Ðến năm 1889, cuộc đại hội các đảng xã hội chủ nghĩa (ở Việt Nam thường gọi là đảng xã hội) của nhiều nước châu Âu, của Mỹ và Argentina đã thành lập „Liên minh quốc tế của các đảng xã hội chủ nghĩa“ (về sau được mệnh danh là Ðệ Nhị Quốc tế). Sau khi Engels mất (1895), Ðệ Nhị Quốc tế bị Lenin công kích thậm tệ, lên án tổ chức quốc tế này là theo đường lối „xét lại“, cải lương, cơ hội chủ nghĩa, thỏa hiệp giai cấp, tay sai của tư sản và phản bội cách mạng. Lenin tuyên bố là trung tâm cách mạng thế giới đã chuyển sang nước Nga và chỉ có ÐCS „bolshevik“ Nga mới thật là cách mạng triệt để.
B. Quan điểm và thực hành của Lenin về ÐCS
Lenin tự cho mình là người kế nghiệp chân chính những di sản lý luận của Marx và Engels, còn Karl Kautsky là renégat (các dịch giả Hà Nội chuyển ngữ là: kẻ phản bội), dù về mặt pháp lý Kautsky được di chúc là người thừa kế chính thức các di cảo của Marx và Engels. Trên thực tế rất nhiều vấn đề Lenin đã làm khác, nếu không muốn nói là xuyên tạc, những tư tưởng của Marx và Engels. Làm như thế, Lenin và phe cánh của ông cho rằng họ đã phát triển chủ nghĩa Marx. Chẳng hạn, về lý luận, Lenin cho rằng cách mạng vô sản có thể giành được thắng lợi ở cái khâu yếu nhất của chủ nghĩa tư bản, khâu đó là nước Nga - một nước mà chủ nghĩa tư bản phát triển còn thấp, chứ không nhất thiết phải nổ đồng loạt ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa đã phát triển, như Marx và Engels đã dự kiến, mà muốn thế thì phải có một „đảng kiểu mới“ khác hẳn với các đảng vô sản đã có trong các Quốc tế dưới thời Marx và Engels. Quan điểm của Lenin về „đảng kiểu mới“, dĩ nhiên, khác hẳn quan điểm của Marx và Engels.
Khi phân tích quan điểm này của Lenin, chúng tôi không viện dẫn những câu „nhật tụng“ „tung hỏa mù“ mà giới lý luận xô-viết thường hay trưng ra (như ÐCS là đội quân tiên tiến nhất, giác ngộ nhất của giai cấp vô sản, ÐCS là đội quân có tổ chức nhất của giai cấp vô sản, v.v... và v.v...) để che đậy quan điểm thật của Lenin về ÐCS, mà chúng tôi dựa vào sách „Làm gì?“ do Lenin viết và xuất bản năm 1902 ở Stutgart. Trong tác phẩm đó, Lenin nói rõ nhất về quan điểm của ông và kế hoạch xây dựng ÐCS „kiểu mới“ của những người cách mạng chuyên nghiệp. Ông cho rằng ở nước Nga tuy chủ nghĩa tư bản chưa phát triển cao nhưng vẫn có thể làm cách mạng vô sản thắng lợi được, miễn là những người cộng sản xây dựng được ÐCS „kiểu mới“ thật bí mật biết dùng bạo lực để cướp chính quyền, nói một cách khác xây dựng được một hội kín của những kẻ âm mưụ Ngay hồi đầu thế kỷ 20, Lenin đã nói: „Hãy cho tôi một đảng những người cách mạng chuyên nghiệp thì tôi lật ngược cả nước Nga“ (còn sau cuộc đảo chính tháng 10.1917, ông mơ ước lật ngược cả thế giới nữa!). Ông cho rằng người muzhich (nông dân) Nga vốn có truyền thống khuất phục, nếu ÐCS cướp được chính quyền rồi thì cả xã hội đều sẽ khuất phục theo và bằng bạo lực của chuyên chính vô sản, ÐCS sẽ xây dựng được chế độ cộng sản. Ðể chuẩn bị cướp chính quyền, Lenin đặc biệt chú ý lập ra các nhóm khủng bố võ trang gồm cả những phần tử tội phạm để làm nhiệm vụ „tước đoạt“ (ăn cướp), ám sát, v.v... Chỉ huy các nhóm khủng bố này là ba người (gọi là „troika“) rất bí mật trong trung ương Ðảng bolshevik, trong „troika“ đó có Lenin và Krasin. Nên nhớ rằng, hồi đó, Ðảng bolshevik là một bộ phận của Ðảng công nhân xã hội - dân chủ Nga, mà Ðảng công nhân xã hội - dân chủ Nga thì cực lực lên án và cấm tuyệt hành động khủng bố, cho nên Lenin và phe cánh phải giữ bí mật tuyệt đối nhóm „troika“ và việc ông ta chỉ huy nhóm khủng bố (xem: Edvard Razinskỵ „Stalin“. Moskva 1997, tiếng Nga, tr.54, 64-69). Thực tế đã chứng tỏ rằng với cái „đảng-hội kín-âm mưu“ đó, Lenin và những người bolsheviks Nga có được trong tay một công cụ (instrument) hữu hiệu đã làm đảo chính cướp chính quyền và thiết lập chuyên chính vô sản hồi tháng 10.1917. Ngày nay, giới sử học Nga cũng đã khẳng định sự biến tháng 10.1917 là một cuộc đảo chính lật đổ chính quyền dân chủ chứ không phải là một cuộc cách mạng, như những người bolsheviks thường nóị Và chính Lenin trong mấy năm đầu sau tháng 10.1917 cũng gọi đó là „đảo chính“ (tiếng Nga là „perevorot“, các dịch giả Hà Nội cố ý chuyển ngữ bằng một từ rất lờ mờ là „chính biến“ - NMC).
Ðể xây dựng ÐCS với thực chất hội kín của những kẻ âm mưu như vậy, Lenin đặc biệt nhấn mạnh vai trò „những người cách mạng chuyên nghiệp“. Ông viết: „... tổ chức của những người cách mạng phải bao gồm trước tiên và chủ yếu những người mà nghề nghiệp của họ là hoạt động cách mạng ...“ (xem: Lenin V.Ị „Toàn tập“, t.6, tiếng Nga, tr.112). Sự thật chứng tỏ rằng „những người cách mạng chuyên nghiệp“ Nga trước tháng 10.1917, phần lớn là những kẻ vô nghề nghiệp, không lao động, hoặc có nghề nghiệp mà không làm việc gì, ngoài „việc làm“ cách mạng; cũng có một số đã có quá khứ tội phạm. Ngay cách làm tài chính cho tổ chức của những người chuyên nghiệp này cũng thấy rõ tính chất hội kín của những kẻ âm mưu: dựa vào hoạt động khủng bố để cướp đoạt làm tiền cho đảng (họ gọi bằng từ ngữ của Marx là tước đoạt). Lenin lý giải thật giản đơn cái quan điểm về „những người cách mạng chuyên nghiệp“. Ông viết: „bắt được mười thằng khôn khó hơn bắt một trăm thằng ngốc“, và ông nhấn mạnh: „phải hiểu rằng - như tôi đã nhiều lần vạch rõ - chỉ có những người cách mạng chuyên nghiệp (chữ in đậm của Lenin - NMC) mà thôi“ (Sđd, tr.124). Nhưng cả „những thằng khôn“ lẫn „những thằng ngốc“ đó phải đứng vào trong „một tổ chức bí mật hết sức nghiêm ngặt“, và tổ chức này phải do „một ủy ban gồm những người cách mạng chuyên nghiệp“ (Sđd, tr.122, 125) điều khiển. Rõ ràng là theo quan điểm của Lenin, ÐCS thực ra là một hội kín của những kẻ âm mưu, chứ không phải là một chính đảng với tính cách là tổ chức xã hội của giai cấp vô sản. Bản thân Lenin cũng không giấu giếm điều đó, khi ông nói: „thật vô cùng ngây thơ khi sợ bị buộc tội chúng ta, là những người xã hô.iđân chủ, lại muốn thành lập một tổ chức âm mưu“ (Sđd, tr.136) . Ông cho rằng tổ chức đó cần có „một mạng lưới những agents“ (từ này trong tiếng Nga có nhiều nghĩa, chúng tôi muốn giữ nguyên dạng từ này, vì nó lột tả thực chất cách đặt vấn đề của Lenin), nhưng - theo ông - „nếu ai đó không thích „cái từ khủng khiếp“ này thì có thể thay bằng từ „những nhân viên“, có khả năng bảo đảm „sác xuất lớn nhất của thắng lợi trong trường hợp nổi dậy“ (Sđd, tr.178). Cũng vì tính chất hội kín của những kẻ âm mưu, nên Lenin luôn luôn đưa lên hàng đầu đòi hỏi „đảng kiểu mới“ phải là một tổ chức „tập trung nhất“,“bí mật nhất“ và phải „có kỷ luật sắt“ cực kỳ nghiêm ngặt. Nền tảng để xây dựng „đảng kiểu mới“ với tính cách „công cụ“ ngoan ngoãn của một lãnh tụ hoặc một nhóm lãnh tụ là nguyên tắc tập trung dân chủ. Chính nguyên tắc này bảo đảm sự phục tùng tuyệt đối của đại đa số đảng viên đối với một nhóm nhỏ những người lãnh đạo, hay nói theo cách của Lenin „một ủy ban gồm những người cách mạng chuyên nghiệp“, và ủy ban ban này - đến lượt nó - phải phục tùng tuyệt đối một hay vài lãnh tụ (chẳng hạn, nhóm ba người gọi là „troika“ đã nói trên). Nhóm nhỏ lãnh đạo ÐCS này khi cướp được chính quyền rồi trở thành tập đoàn thống trị nhà nước và xã hộị
Lenin còn đưa ra luận điểm về „sự độc quyền lãnh đạo (hégémonie) của giai cấp vô sản, tức là của ÐCS“. Xin chú ý rằng: trong các cụm từ „sự độc quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản“ hay „chuyên chính của giai cấp vô sản“, cái vế „của giai cấp vô sản“ chỉ là một cách nói đẹp để dụ hoặc người lao động, còn nghĩa thực của nó là của một hoặc vài lãnh tụ, tức là một nhúm nhỏ „những người cách mạng chuyên nghiệp“, nói cách khác là một tập đoàn thống trị cộng sản. Ðối với Lenin, cả giai cấp vô sản, hay nói rộng hơn toàn dân tộc, toàn nước Nga chỉ có thể có một đảng duy nhất, đó là ÐCS của những người bolsheviks, đứa con đẻ quan trọng nhất của „chủ nghĩa Lenin“, hình mẫu cho các ÐCS trên thế giớị
Ðấy, quan niệm về ÐCS của Lenin là như thế, và chính quan niệm đó là một trong những cơ sở để xây dựng lên chế độ cực quyền toàn trị khi ÐCS đã cướp được chính quyền. Sau cuộc đảo chính tháng 10.1917, ÐCS trở thành một yếu tố chính của nhà nước mới xuất hiện. Những người bolsheviks, thông qua ÐCS, nắm quyền thống trị độc tôn chuyên chế vô hạn đã tiêu diệt hết các đảng và các tổ chức đối lập, tiêu diệt „các giai cấp thù địch“ - cụ thể là giai cấp các chủ ruộng đất, giai cấp các nhà công nghiệp, thương nghiệp, giai cấp những người nông dân năng nổ nhất, đắc lực nhất trong nền sản xuất nông nghiệp (tiếng Nga gọi là kulak)ø , giai cấp các nhà trí thức, tiêu diệt hết mọi mầm mống dân chủ trong xã hộị Quyền chuyên chế vô hạn đó đã được thiết lập ở Nga hồi tháng 10.1917 là do trình độ văn hóa chính trị thấp kém của dân chúng, đặc biệt là của người muzhich ở nông thôn, và truyền thống dân chủ quá non yếu của xã hội Ngạ Bằng bạo lực đẵm máu, những người cộng sản-bolshevichs duy trì được quyền đó đã hơn bảy thập niên ở nước Nga cho đến khi ÐCS bị hạ bệ hồi tháng 8.1991. Trong suốt thời gian đó, ÐCS đã biến mình trở thành trung tâm liên kết và hình thành một giai cấp thống trị mới, giai cấp quan liêu đặc quyền đặc lợi gọi là „nomenklatura“.
Một điểm quan trọng cần vạch rõ nữa là: sau ngày ÐCS cướp được chính quyền ở Nga, xuất hiện ngay một sự cộng sinh (symbiose) giữa đảng và nhà nước, dựa trên sự kết hợp trước hết giữa đảng và cơ quan công an mật vụ (lúc đầu gọi là Vecheka - ủy ban đặc biệt toàn Nga, hay Cheka - ủy ban đặc biệt). Ðiều đó thể hiện rõ trong nhiều „chỉ thị“ của Lenin. Xin dẫn một đoạn trong thư Lenin gửi cho Yakov Ganetsky: „hãy thiết lập mối quan hệ khắng khít nhất giữa các tổ chức đảng với các Cheka... bắt buộc tất cả các đảng viên có chức vụ phải báo cho các Cheka tất cả những tin tức đến họ bằng con đường riêng tư hay chính thức và có ích cho cuộc đấu tranh chống phản cách mạng và gián điệp. Không chỉ hạn chế trong việc đó mà thôi, họ còn phải giúp đỡ một cách hữu hiệu các Cheka, tham gia việc xét xử... dự các cuộc hỏi cung, v.v...“ (xem: sách „Lenin và Vecheka“, 1975, tr. 281). Chính Lenin đã từng viết: „một người cộng sản tốt đồng thời phải là một chekist (công an mật vụ) tốt“ (Sđd, tr.363). ÐCS cầm quyền thực tế trở thành một đảng-nhà nước. ÐCS giống như con bạch tuộc vươn dài các vòi của nó bám chặt vào mọi cơ cấu của bộ máy nhà nước, xoắn quyện nhau, gắn chặt thành một bộ máy đảng-nhà nước của giai cấp thống trị mới, giai cấp quan liêu (nomenklatura) đông hàng nhiều triệu ngườiø. Bộ máy này rất to lớn và cồng kềnh đè nặng lên quảng đại dân chúng, trước nhất là các giai cấp mà đảng coi là thành phần cơ bản của xã hội (công nhân và nông dân lao động), cũng như lên quần chúng đảng viên. Bằng bạo lực chuyên chế đẵm máu, bộ máy này nghiền nát chẳng những mọi phản kháng, mọi ý đồ đối lập, mà còn đè bẹp, triệt tiêu cả mọi tư tưởng độc lập, mọi ý hướng dân chủ, mọi tư tưởng khác biệt trong đảng và ngoài xã hộị
Vô hình trung trong cả đất nước rộng lớn bao la chiếm đến một phần sáu địa cầu đã hình thành nên một kim tự tháp xã hội mà kẻ đứng trên đỉnh tháp là „lãnh tụ tối cao“ của đảng với quyền lực cá nhân không hạn chế được tôn vinh là „lãnh tụ của giai cấp vô sản toàn thế giới“ (Lenin) hoặc „người cha của các dân tộc“ (Stalin), thực chất là một Nga hoàng đỏ, một tên độc tài đỏ. Trong kim tự tháp lớn lại có nhiều kim tự tháp nhỏ, trên đỉnh mỗi kim tự tháp nhỏ là một bí thư đảng bộ cộng sản địa phương, tức là một „lãnh tụ con“, một lãnh chúa phong kiến đỏ. Còn ở đáy kim tự tháp là quảng đại dân chúng, bao gồm chủ yếu là những thành phần gọi là cơ bản của đảng - công nông binh, đảng viên thường. Trong số này một số không ít được giai cấp quan liêu tuyển chọn làm cán bộ để dần dần bổ sung vào giai cấp quan liêu cầm quyền, hoặc làm tay sai cho giai cấp đó.
Ðấy, từ quan niệm của Lenin về ÐCS đã tạo nên chế độ cực quyền toàn trị như thế. Ðó là hình mẫu chung cho tất cả các nước gọi là „xã hội chủ nghĩa“.