mercredi 19 octobre 2011

Ý THỨC CHỐNG CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN (CNCS)


CHỐNG CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN KHÔNG PHẢI VÌ MẤT CHỖ ĐỨNG, MÀ VÌ CHỦ NGHĨA ĐÓ PHẢN TIẾN BỘ

-Hồng Long.HDB

chủ nghĩa cộng sản xuất hiện trước lương tri loài người như là một thách đố của một chủ thuyết cực kỳ tả khuynh nhằm xóa bỏ mọi giá trị văn hóa truyền thống bị gán cho là những cản trở của tiến trình xây dựng xã hội cộng sản. Lương tri loài người đã thể hiện ở ý thức chống CNCS ngay từ khi lý thuyết CS còn trong trứng nước và càng ngày càng tăng tiến. Chính ý thức đó đã đánh gục ý thức hệ CS ở Liên Xô trước đây một thập niên.
CSVN đã và đang tìm cách triệt tiêu ý thức chống CNCS hoặc lèo lái ý thức chống CNCS đó trở thành có lợi cho CS bằng cách tô đậm những hình ảnh lồng căm thù cộng sản sục sôi như những vạc dầu khiến cho các đảng viên buộc phải cấu kết với nhau để bảo vệ đảng cho sự sống còn của họ. Để hóa giải độc chiêu đó, các phương thức chống cộng nên phải tiến hành khôn ngoan trong hướng làm thức tỉnh những lương tâm tố như tính chân thực, đức công bằng, và tinh thần bác ái trong lương tri nơi con người CS và làm cho họ hiểu rõ rằng nếu họ thành tâm hợp tác thì cuộc sống của họ sẽ được bảo đảm an toàn, và như vậy tầm tác dụng chống CNCS sẽ cao hơn là làm cho họ lo sợ cho mạng sống của họ và thân nhân bị trả thù. Cần phải làm cho người CS thấy rằng ý thức chống CNCS ngày một gia tăng và những mưu mô đã và hiện có của tập đoàn CSVN nhằm triệt tiêu ý thức đó cũng sẽ chỉ là công dã tràng xe cát như đã xẩy ra ở Liên Xô và Trung Quốc.
Những sự kiện đáng chú ý:
100.                    Ngày 17-7-1918, mười một người trong gia đình hồng gia Nga đã bị hành quyết dã man tại thành phố Yekaterinburg.
101.                    Ngày 16-7-1998, hàng ngàn dân chúng Nga tràn ra đường đứng im lặng chờ đón các quan tài của Nga Hồng Nicholas, Nga Hậu, hồng tử, và công chúa trở về cố hương với 21 phát đại bác nổ vang như nói lên nỗi uất ức nghẹn ngào của cả một dân tộc bị hơn 80 năm đàn áp đưới chế độ CS. Hôm đó, Tổng Thống Nga, Yelsin tuyên bố: "Sự thức bị bưng bít 80 năm qua, ngày mai sẽ được tiết lộ." Trong khi đó thì CSVN vẫn hàng năm ca ngợi cuộc Cách Mạng Nga, 24-10-1917, với khẩu hiệu: "Liên Xô là thành trì của CM vô sản, là chỗ dựa vững chắc cho các phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới."
102.                    Cuộc CM vô sản Nga này vào giai đoạn đầu đã giết tới 10 triệu người gồm phú, trung nông, tư sản, trí thức, và quan chức Nga Hồng. Đến thời Stalin, con số người bị tàn sát lên tới 14 triệu. Từ 1925, Stalin ra lệnh tập thế hóa nông nghiệp: 25 triệu nông trại tư bị cấm hoạt động; nông và gia súc đều bị tập trung trong các nông trường tập thể. Các cơ sở tư doanh bị dẹp bỏ; hệ thống gia đình bị phá vơ; con cái được huấn luyện phải tố cha mẹ; người dân phải rình rập lẫn nhau và báo cáo; công an mật vụ được cài vào mọi cơ sở để nghe ngóng.
103.                    Năm 1934, đại hội đảng lần thứ 14 gồm 1966 đại biểu thì 1108 người bị tống giam. Trung ương đảng năm 1934 gồm 139 ủy viên thì 98 ủy viên bị bắn bỏ với hơn một triệu đảng viên bị khai trừ.
104.                    Năm 1956, Thủ Tướng Nikata Khrushchev lên án: "Stalin là kẻ thù của nhân dân." Năm 1961 xác của Stalin bị đưa ra khỏi Công Trường Đỏ đồng thời tên Stalin trên các đường phố, nhà máy và công viên bị xóa bỏ. Thành phố Stalingrad đổi thành Volvograd. Khi Stalin chết, Tố Hữu làm bài thơ khóc Stalin như ông nội chết: "Thương cha, thương mẹ, thương chồng thương  một; thương ông thương  mười."
105.                    Năm 1949, đảng CS Trung Quốc chiếm trọn Hoa Lục. Mao Trạch Đông cũng thực hiện những chính sách độc tài như Stalin: xóa bỏ tư hữu; thiết lập nhân dân nông xã với kế hoạch Bước Nhẩy Vọt. Để đàn áp các chống đối từ mọi phía, Mao đã không ngần ngại thủ tiêu những đồng chí từng cùng vào sinh ra tử và các nhà trí thức đầy tâm huyết. Hàng chục triệu sinh mạng vô tội đã phải hy sinh cho một thiên đường cộng sản đầy bóng ma của Mao.
106.                    Năm 1945 CSVN nổi lên cướp chính quyền. Hồ Chí Minh đã thi hành đúng những gì đã được Liên Xô và Trung Quốc huấn luyện. CSVN đã tiêu diệt hết các đãng phái và lãnh đạo các tôn giáo. Trong cuộc cải cách ruộng đất, cả gần nửa triệu người dân đủ từng lớp đã bị đấu tố chết.

Ý THỨC CHỐNG CNCS TRƯỚC CUỘC CÁCH MẠNG NGA, THÁNG 10, 1917
Ý thức chống chủ nghĩa cộng sản đã hình thành ngay từ khi lý thuyết cộng sản manh nha trong bản Luận Cương (Manifesto) của Karl Marx (1818 - 1883) được phổ biến chiều hôm trước khi những cuộc nổi dậy tại Pháp, Ý, Đế Quốc Áo, và Đức bùng ra mà sử ghi là Các Cuộc Cách Mạng 1848. Bản luận cương đó tóm lược triết thuyết xã hội của Marx, và tại London, Marx thành lập và lãnh đạo Hội Thợ Thuyền Quốc Tế (Đệ Nhất Quốc Tế) năm 1864. Ngay từ thuở sơ khai đó, nhiều thức giả đã chống chủ nghĩa CS vì cho rằng đó là một lý thuyết mang tính không tưởng (Utopia) và phi nhân bản hóa là chỉ có trong tưởng tượng và sử dụng những biện pháp trái nhân đạo, khi các lý thuyết gia CS mơ tới một xã hội không giai cấp, không bóc lột, không nhà nước lãnh đạo, làm theo khả năng; hưởng theo nhu cầu, và chủ trương cứu cánh biện minh phương tiện.
Trong thực tế, vấn đề phân chia giai cấp là không thể không có vì tổ chức xã hội loài người là đa dạng và loài người bản chất cũng đa dạng - nhiều giai cấp - mới có thể hoàn thành được những chức năng cơ bản của con người là: sống, làm việc, và tiến bộ. Vấn đề của loài người không phải là xóa bỏ giai cấp - một mối trật tự bắt buộc phải có trong các cấu trúc hữu cơ - vấn đề là phải biết dùng đạo đức và luật lệ để không có những cách biệt quá mức giữa các giai cấp. Về vấn đề bỏ bóc lột, người cộng sản chủ trương hủy bỏ tư hữu thay bằng công hữu. Thực tế khi không có tư hữu, người vô sản không còn khả năng gì để tự che chở mà hoàn toàn lệ thuộc vào kẻ nắm tư hữu là các cán bộ CS. Giải quyết vấn đề bóc lột như thế là không có biện chứng (logic). Việc xóa bóc lột cũng phải dựa trên hai cơ sở là đạo đức xã hội và cơ chế luật pháp: nâng cao trình độ văn hóa, bảo đảm quyền tư hữu; bảo vệ các phúc lợi, và ngăn chặn độc quyền.
Vấn đề không nhà nước lãnh đạo cũng là? không tưởng vì con người vốn luôn luôn cần có lãnh đạo để vươn lên, vì những người lãnh đạo thường là những người có trí tuệ; mà trí tuệ là hiểu biết, là ánh sáng. Con người tiếp cận trí tuệ để khôn ngoan cũng như cây cỏ vướn lên tới ánh sáng để phát triển. Không ai có thể hình dung được một xã hội mà con người không đòi hỏi có những trí tuệ hơn mình để noi theo. Hợp lý nhất là xã hội luôn luôn cần có những lãnh đạo trí tuệ được mọi người tự do lựa chọn và cũng dành quyền bãi bỏ.
Đề xuất "làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu" dựa vào tiến trình máy móc hóa công nghiệp cũng là một thứ bánh vẽ mà chỉ những người ngây thơ hoặc có chứng "không tưởng" tin theo. Thực tế trong tổ chức của đảng CS thì đại đa số các lãnh đạo "làm thì với khả năng nhưng hưởng thì vượt nhu cầu."
Chủ trương "cứu cánh biện minh phương tiện" đã nói lên tính tàn ác của những tín đồ CS: họ không từ bất cứ một biện pháp giết người nào cho dù là dã man nhất cốt đạt được mục tiêu. Nhiều tên đồ tể CS tỏ ra không còn một chút tính người trong những hành động tàn sát các nhân vật quốc gia một cách vô cùng man rợ.
Chủ nghĩa CS và chế độ CS mang tính nghịch lý và phi nhân đạo như thế, tại sao đã có nhiều người tin theo? Tại vì, vào thời kỳ đó, nhân loại đa số vốn còn lạc hậu, nghèo khổ, nên rất nhiều người mơ tới một xã hội công bằng và no ấm. Ngay giới trí thức đầy lồng vị tha và sống sung túc hồi đó cũng mơ tới một triết lý giải quyết thỏa đáng trọn vẹn các vấn đề nhân sinh với một xã hội công bằng và bác ái cho cuộc sống có ý nghĩa hơn. Đảng CS đã đánh trúng tâm lý đó bằng một mớ lý thuyết còn viết dang dở của Marx. CS đã tung ra những khẩu hiệu hết sức lý tưởng nêu trên và quả đã thu hút, mê hoặc được hàng triệu khối óc và trái tim con người hằng tha thiết với mơ ước giải phóng thân phận những con người cùng khổ. Những người cả tin theo chủ thuyết CS đã tận tình tạo nên những hào quang sáng chói của những lãnh tụ CS, thèm khát dự phần trong ánh hào quang đó, và đã bất kể đến những ý kiến trái với giấc mơ quá đẹp của họ!
Hẳn nhiên cũng đã có nhiều nhân vật kịch liệt bài bác chủ thuyết CS vì tính không tưởng và độc tôn của nó khi thuyết này mới đem ra thực hiện.

Ý THỨC CHỐNG CSCN SAU KHI CÁC CHẾ ĐỘ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (XHCN) HÌNH THÀNH

Như phần trên đầu có trình bày; ý thức chống CNCS là một hàm số tiến, nghĩa là cùng với sự gia tăng cường độ biến đổi của các biến số đạo đức xã hội, tri thức khoa học, và chính trị kinh tế, CNCS sẽ phải đi vào giai đoạn tàn lụi khi cường độ gia tăng của các biến số đó đủ lớn như ở Liên Xô và các nước Đông Âu vào cuối thập niên 1980.
Ở Liên Xô, ngay khi nhà nước XHCN hình thành, nhiều lãnh tụ CS đã chống đối chính sách xây dựng XHCN của Stalin đề ra. Điển hình là Leon Trosky (1879-1940), sau CM Tháng 10 Nga, là Ủy Viên Ngoại Vụ; đến thời Stalin thì bị trục xuất (1929); lập ra "Đệ Tứ Quốc Tế" và chống Stalin qua cuốn Cuộc Cách Mạng Bị Phản Bội (The Revolution Betrayed, 1937); và cuối cùng bị ám sát tại Mexico City. Đồng thời là hàng trăm ngàn người đã bị tước đoạt quyền sống và đầy lên Tây Bá Lợi Á lao động khổ sai trong các hầm mỏ. Một số nhỏ may mắn thóat được ra ngoại quốc đã kể lại trong hồi ký những thảm cảnh địa ngục trần gian trong các trại tập trung ở Liên Xô.
Chính sách của CS càng tàn nhẫn bao nhiêu thì ý thức chống Cộng càng bùng lên mạnh mẽ bấy nhiêu. Ý thức xoay chuyển và chống lại CNCS cổ điển đã hình thành ngay trong nội bộ CS khi Nikita Khrushchev (1894-1971) lên cầm quyền lãnh đạo đảng. Năm 1956, ông tuyên bố từ bỏ chính sách Stalin (Stalinism), bỏ tôn sùng cá nhân, và chủ trương tiến gần với Tây Phương như là một dấu hiệu phá sản của ý thức hệ CS. Cho tới đầu thập niên 90 thì ý thức hệ CS đã hoàn toàn bị xóa bỏ và đảng CS đã giải thể. Tính ra đảng CS Liên Xô đã sống được khoảng 73 năm. Chính những người CS đã ý thức được sự sai lầm của các thế hệ trước và đã can đảm nắm tay nhau tìm cách từ bỏ CSCN một cách khá ngoạn mục.
Ở Trung Quốc, chẳng bao lâu sau khi nhà nước XHCN hình thành, hầu hết các trí thức đã vỡ mộng trong đó có bác sì Lý Chí Tuy (1919- ) đã từ bỏ cuộc sống vững vàng ở Úc và trở về TQ với một lồng yêu nước quá thiết tha đến nỗi chẳng cần cân nhắc tới những mâu thuẫn nội tại của chủ thuyết. Ong cũng như hàng triệu người dân thường đã góp phần tạo hào quang cho họ Mao - một con người đầy khát vọng, mưu chước và dã tâm, trong những nỗ lực đưa TQ lên vị trí lãnh đạo thế giới nhưng đều thất bại. Tất cả các cuộc thanh trừng đẫm máu nhằm củng cố quyền lực của ông như phong trào Cách Mạng Văn Hóa (5/66) do ông vạch ra, giật dây, đưa người ta vào trồng, và cho những nhân vật thân tín như Giang Thanh (vợ) và Lâm Bưu mặc sức thi hành, còn ông thì lánh mặt; riêng Lâm Bưu vốn được coi là cánh tay mặt và kế vị Mao sau đó bị Mao giăng bẫy ghép vào tội phản bội, phải trốn đi (13/9/71), và tử thương trong một chuyến máy bay không đủ nhiên liệu!
Các cuộc chống đối trong và ngoài nội bộ vẫn càng ngày càng gia tăng. Các nhà kế hoạch chống Mao có thể kể như Bá Y Bát (Chủ Nhiệm Ủ Ban Kinh Tế Nhà Nước), Lý Phục Xuân (Ủy Ban Kế Hoạch Nhà Nước) đã đưa ra những chỉ trích nhắm vào họ Mao trong kế hoạch Những Bước Nhẩy Vọt. Nhưng chỉ riêng có Bành Đức Hồi (Quân Ủy Trung Ương/Bộ Trưởng Quốc Phịng) viết hẳn một lá thư thật dài (14/7/59) lời lẽ ôn hòa, sâu sắc, rất dung hòa được sự ủng hộ của Hồng Khắc Thành (chủ nhiệm Ban Thường Vụ), Chu Tiểu Châu (đệ nhất bí thư tỉnh Hồ Nam), và Trương Văn Tiến (thứ trưởng ngoại giao, vạch ra những sai, đúng trong quá trình thực hiện Bước Nhẩy Vọt và đã làm Mao mất ăn, mất ngủ. Tại Hội Nghị Lư Sơn, Bành và những người ủng hộ ông đều bị gán tội danh là tư sản chống đảng (8/59). Các phó thủ tướng như Đàm Chấn Lâm và Lý Phụng Châu, cùng với các thống tướng Trần Ngọc, Diệp Kiếm Anh, Từ Chương Khiên, và Nhiếp Dung Trân đều lên tiếng đả kích Cuộc Cách Mạng Văn Hóa do Mao đạo diễn. Thậm chí, phó thủ tướng Đàm Chấn Lâm đã viết tâm thư nói rằng ông ân hận đã tham gia cách mạng, tham gia vào Hồng Quân, và càng đã không nên tham gia vào lực lượng của Mao tổ chức tại Thanh Cương Sơn hồi những năm 1930. Kết quả là hàng chục ngàn đảng viên bị hàng triệu vệ binh đỏ khắp toàn quốc đấu tố chết hay bị khai trừ trong đó có Lưu Thiếu Kỳ, Điền Gia Anh (tự vẫn), Đặng Tiểu Bình, và Đào Chu.
Các cuộc chống đối ngày một gia tăng cùng với những sự thất bại trong Các Bước Nhẩy Vọt (1958) tiến hành thành lập các Nhà Nước Nông Xã và Các Nhà Đúc Thép Sau Hè đã làm cho họ Mao thức tỉnh nên vào đầu thập niên 1970, Mao mở cửa đón Tây Phương và Henry Kissinger đã bí mật viếng thăm TQ vào năm 1971 và Tổng Thống Nixon năm 1972. Tuy nhiên Mao vẫn tiếp tục ca ngợi chính sách độc đoán của Stalin và tạo ra những phẫn nộ ghê gớm của quần chúng đối với những sai trái của các đảng viên khiến cho các đảng viên dù có tư tưởng chống Mao cũng phải bảo vệ Mao và Đảng để tồn tại. Dựa vào sự tôn sùng của quần chúng, Mao tìm cách loại tất cả các nhân vật trí thức chống đối và những đảng viên ngang vai vế như Lưu Thiếu Kỳ, nhân vật số hai của TQ, Đặng Tiểu Bình và Lâm Bưu chỉ vì họ có cái nhìn khác với cái nhìn của Mao, và đặc biệt là họ phủ nhân sự tôn sùng cá nhân khi họ Đặng tuyên bố rằng hiến pháp mới sẽ không có câu "lấy tư tưởng Mao Chủ Tịch là kim chỉ nam cho ý thức hệ."
Đối với trí thức, Mao không bao giờ đặt tin tưởng vào lồng trung thành của họ. Vì cả tin vào lời kêu gọi phê bình sửa sai của Đảng qua phong trào "Trăm Hoa Đua Nở, Trăm Ý Đấu Tranh", nhà văn Hồ Phương năm 1955 đã bị tống giam. Qua phong trào này, người ta thấy niềm khát khao của mọi giới về một nền dân chủ thực sự đã bùng nổ lớn: những lỗi lầm của đảng bị chỉ trích mỗi lúc một gay gắt và đã tiến tới cực điểm là xoái vào vai trò lãnh đạo của đảng và toàn bộ tư cách pháp lý của đảng bị đưa ra phân tích. Ý quần chúng cho rằng đảng CS không có thể độc quyền lãnh đạo quốc gia và quyền hành phải được chia xẻ cho các giới khác. Cuộc thanh trừng đã diễn ra trong Cuộc Cách Mạng Văn Hóa đã giết trên dưới 30 triệu người chỉ với mục tiêu là Mao tồn tại với quyền lãnh đạo và thực hiện những bước tiến nhẩy vọt đưa TQ lên vị trí hàng đầu thế giới và mở ra cuộc cách mạng vô sản toàn cầu.
Ở Việt Nam, ngay sau khi nắm được chính quyền năm 1945, đảng CS đã mở chiến dịch thủ tiêu các nhân vật chính trị, tôn giáo, đảng phái như Tạ Thu Thâu, Lãnh Tụ Đệ Tứ Quốc Tế; Đức Huỳnh Phú Sổ, Giáo Chủ Hào Hảo; chỉ trừ một số nhân vật cần giữ lại để làm bình phong như Hoàng Đế Bảo Đại, Cụ Nguyễn Hải Thần, Ông Ngô Đình Diệm, Nhất Linh, v.v., nhưng sau khi chính quyền đã vững rồi thì CS làm lơ cho những nhân vật đó tự trốn đi.
Cuối năm 1946, trước và sau khi nổ súng để tiến hành cuộc chiến chống Pháp, CSVN đã thẳng tay tiêu diệt tất cả các đảng phái quốc gia. Đảng viên Quốc Dân Đảng bị tàn sát ở Vĩnh Yên; Đại Việt bị vây ở Lạng Sơn và các lãnh tụ Đại Việt như Trương Tử Anh bị tra tấn và thủ tiêu; Đại Việt Duy Dân của Lý Đông A chiến đấu ở đồi Nga My, Ninh Bình và hơn 400 đảng viên bị hy sinh. Có tin tung ra là Lý Đông A đã chết trong trận ở Nga My. Có tin ông vẫn còn sống và có tập thơ được truyền ra hải ngoại, mang tên là Hoa Địa Ngục nguyên là của Lý Đông A chứ không phải là của Nguyễn Chí Thiện. Giáo Sư Thạc Sĩ Y Khoa Trần Ngọc Ninh đã viết tại Hoa Kỳ, 6/1992, trong Khảo Phê Văn Học dài 30 trang bằng một giọng văn trí thức có mổ xẻ tỉ mỹ và dẫn chứng đầy đủ để chứng minh rằng người đã liều chết đem tập thơ vốn chưa có tựa đề vào tòa đại sứ Anh ở Hà Nội không phải là Nguyễn Chí Thiện. Và, G.S. kết luận: "Nhưng tập thơ chủ yếu là một tuyên ngôn và là một mật lệnh. Tuyên ngôn trước kẻ thù. Mật lệnh cho các đồng chí." (tr. 11).
Nhiều người khác phân tích đã đưa ra nhiều điểm để chứng tỏ rằng Nguyễn Chí Thiện không phải là tác giả Hoa Địa ngục: (1) không có một tù cải tạo nào viết lách chống đối mà không bị đánh chết hoặc tử hình; (2) lứa tuổi sinh năm 1939 thì trình độ Pháp Ngữ không đủ để viết lá thư ghi trong thi tập; (3) lập trường chống CS của NCT khi sang tới HK không phù hợp với tinh thần tập thơ; (4) tập thơ xuất bản sau này của NCT khác với bút pháp trong tập thơ Hoa Địa Ngục.
Có người còn cho biết đã tìm ra tên của Lý Đông A mật ghi ngay trong tập thơ Hoa Địa Ngục, trong bài thơ dài nhất (gần 500 câu), quan trọng nhất, và cũng là bài mở đầu có tên là"Đồng Lầy" bằng cách phân tích từ Đồng Lầy và thấy từ này gồm các mẫu tự của ba chữ Lý Đông A ghép lại: đem chữ Lầy ra trước; lấy đi chữ A thì còn là Ly; đem A trở lại sau thì thấy là Ly Đong A!
Sau 1954, khi đã chiếm được nửa nước, CSVN củng cố lại hàng ngũ các cấp để loại trừ các phần tử có tinh thần chống đối. Rập khuôn như Trung Quốc đã làm, CSVN đưa ra phong trào Trăm Hoa Đua Nở, cho phép các cán bộ tự do phê bình đảng. Luật Sư Nguyễn Mạnh Tường đã mạnh dạn lên tiếng chỉ trích đảng. Ông đã bị khai trừ và bỏ đói rất thảm thương. Nhóm Nhân Văn Giai Phẩm qui tụ những nhà văn có tài, lãnh đạo bởi Nhà Văn Phan Khơi, đã viết những bài đả kích đảng và đã bị nhà nước CS vùi dập, bỏ tù. Tuy vậy ý thức chống chủ nghĩa CS vẫn tiếp tục và trong dân chúng hàng trăm câu vè, câu chuyện tiếu lâm đã nhanh chóng lan truyền không làm sao dập tắt được.
Sau 75, CSVN đã hoàn toàn làm chủ cả Nam lẫn Bắc, những người dân cả hai miền Nam và Bắc và thế giới trước đây còn nghi hoặc và ủng hộ CSVN đã hoàn toàn thất vọng trước những chính sách của nhà nước CS đưa ra đã chỉ dẫn đến sự kiệt quệ các tài nguyên, tạo tham nhũng, và nghèo đói. Nhiều đảng viên kỳ cựu như Nguyễn Hộ, Trần Độ, Dương Thu Hương, v.v. đã lên tiếng chỉ trích Đảng; các cuộc nổi dậy của nông dân Thái Bình, của công giáo, Phật Giáo, và các nhà đấu tranh cho nhân quyền, cho dân chủ đều đã bị đàn áp thẳng tay; trùm mafia Năm Cam từng được bao che đã tạm phải bị truy tố như để tránh bị quốc tế ghép vào trục quỉ khủng bố.
Tóm lại, toàn thể các tầng lớp nhân dân đều ôm trong lồng mối oán hận chế độ. Đảng đã sử dụng mọi biện pháp để dập tắt mọi âm mưu lật đổ chính quyền và sử dụng những món tiền khổng lồ vào các hoạt động văn hóa vận nhằm tiêu diệt ý thức chống Cộng và họ hy vọng đảng CS sẽ tồn tại mãi một khi ý thức chống Cộng đã mai một đi trong tâm trí mọi người.

CHIẾN DỊCH TIÊU TRỪ Ý THỨC CHỐNG CỘNG CỦA CS VIỆT NAM
Để tẩy não con người, CSVN đã tung ra hàng loạt những chiến dịch qui mô, sâu rộng trong và ngoài nước cố gắng tái tạo những ấn tượng tốt về con người CS và tiếp tục bôi nhọ hình ảnh đẹp của những người QG chống cộng.
Về chính trị, CSVN bỏ những luận điệu chống Mỹ và thóa mạ Việt kiều. Mặt khác họ tìm sự che chở của Trung Quốc bằng cách nhượng bộ quyền khai thác lãnh hải và di chuyển mốc biên giới mà Hồ Chí Minh đã ký cam kết để được viện trợ tiến hành Cuộc Chiến Đông Dương, để vỉnh viễn buộc các đảng viên phải đi vào quỉ đạo của TQ. Họ dàn dựng ra các mặt trận, đoàn thể này nọ nhằm (1) thu hút các phần tử chống chế độ để cho ăn bánh vẽ và khống chế; (2) moi hầu bao của những người qua các cuộc quyên góp; (3) đánh bóng tên tuổi cho một số cò mồi đủ loại để sử dụng khi tình thế bắt buộc phải có sự thay đổi.
Về văn hóa và tư tưởng, họ vẫn duy trì những tài liệu giáo khoa ca ngợi những thành tích kháng chiến chống Pháp như là của riêng họ và ngược lại lên án những người quốc gia là bán nước khi liên kết với Pháp và Hoa Kỳ. Họ kiểm duyệt những sách báo và tài liệu trao đổi qua mạng lưới thông tin điện tử, nhưng ngược lại đã cho triển lãm, phát hành sách báo, phim ảnh, băng hình tuyên truyền rằng xã hội chủ nghĩa là ưu việt và chỉ có người cộng sản mới là những người yêu nước chân chính. Đặc biệt là ở quốc ngoại, CSVN cho các cán bộ chỉ đạo khống chế các hoạt động chống Cộng bằng cách gài người, mua chuộc những phần tử quốc gia, tìm cách len lỏi vào tất các các hội đòan để lũng đoạn quyền hành. Sau đây là một số mục tiêu chính nằm trong chiến dịch tiêu trừ ý thức chống Cộng mà CSVN đã và đang thực hiện:
Bỏ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ: CS cho rỉ tai tuyên truyền rằng chế độ Việt Nam Cộng hào không còn tồn tại và lá cờ đó không còn được Liên Hiệp Quốc công nhận. Một số trường học ở Hoa Kỳ đã bị cộng đồng Việt phản đối và đã dẹp cờ Việt Cộng xuống thay bằng cờ Vàng Ba Sọc Đỏ. Các em học sinh cũng đã được cha mẹ, anh, chị, chỉ dẫn rõ ràng rằng lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ đã từng là linh hồn của tổ quốc Việt Nam không Cộng Sản và gia đình các em lánh nạn cộng sản đều có trách nhiệm bảo vệ lá cờ đó.
Hào Hợp Hào Giải: Một số ý kiến bầy tỏ lập trường hào giải với CSVN nhưng đã bị đa số các tổ chức và đồng bào không tán thành, giản dị là nếu CS muốn hào hợp sao còn bắt giam những người bất đồng chính kiến? Sao không tạ lỗi vì đã đối xủ tàn nhẫn với quân cán chính VNCH? Sao không bỏ Điều 4 Hiến Pháp xác định tính cách độc đảng? Trong lịch sử đấu tranh chống CS, nhiều nhà đấu tranh đã bị lừa dối rồi. Không thể để CS lừa dối mãi. Trên thực tế CS và QG như lửa với nước: không thể hào hợp được. Chừng nào còn CS cầm quyền thì chừng đó còn có chống đối. Tuy nhiên cũng cần phải có mưu lược khôn ngoan trong các hình thức chống đối mới đạt được kết quả mong muốn, chẳng hạn, phải làm sao thu hút được cảm tình của quần chúng của các quốc gia trên thế giới; làm sao cho những người hiện trong hàng ngũ CS hiểu rằng họ sẽ không bị trả thù khi trở về với chính nghĩa quốc gia; và vô hiệu hóa những mánh lới của CS nhằm chia rẽ người quốc gia bằng cách tránh những trò phê phán nhau một cách tiêu cực.
Văn Hóa Vận: CS cho in các sách báo, băng hình, phim truyện và cho các nghệ só xuất ngoại nhằm mua chuộc giới trẻ, tạo cho giới trẻ một cái nhìn đối với VN khác với cái nhìn của thế hệ cha, chú. Vào những ngày kỷ niệm của CS, họ cho cò mồi tổ chức ăn uống, ca nhạc để đánh lạc hướng quần chúng. Vào những dịp hội hè, họ mua chuộc để những khuôn mặt thiên cộng xuất hiện. Họ lập hội này nọ để lèo lái các hoạt động văn học và nghệ thuật.
Tuy nhiên, người Việt nói chung đã có quá nhiều kinh nghiệm đối với những trò như chụp mũ, bôi nhọ, nói xấu, móc, thọc, và mua chuộc do các phần tử tay sai của CS tung ra trong những năm qua, nên họ đã có những nhận định vững vàng, không còn chao đảo nữa. Đặc biệt thế hệ trẻ VN ở ngoại quốc đa số không ngây thơ như CS tưởng. Dù còn ít tuổi nhưng họ đã có những suy tư khá vững chắc qua những ý niệm tự do, dân chủ, bình đẳng, và công bằng xã hội mà nhà trường và thực tiễn đã cung cấp cho họ. Họ có thể đi coi, đi nghe để có thêm tin liệu sống và đã không mảy may tỏ ra có một chút tin tưởng nào đối với những lời tuyên truyền của CSViệt Nam. Đối với họ từ CS đồng nghĩa với xạo hay cuội đã trở thành phổ biến.
Mặc dầu đã có rất nhiều mưu mô thâm độc rút ra từ những kinh nghiệm của CS Trung - Xô và dư thừa tiền bạc để lũng đoạn, CSVN trước sau vẫn thất bại trong toan tính triệt tiêu ý thức chống CNCS. Tại sao? - Bởi vì ý thức chống Cộng là một hàm số mũ đồng biến và bản chất của ý thức đó là các yếu tố đạo đức xã hội; kiến thức khoa học; và chính trị kinh tế là những biến số tăng. Ba yếu tố này không tương hợp được với bất cứ một mệnh đề nào như "đỉnh cao trí tuệ", hay "ưu việt", như CNCS đã tự gán cho họ những mệnh đề đó. Sau đây là hai quá trình chính diễn ra của hàm số đó.

Ý THỨC CHỐNG CỘNG
của THẾ HỆ CŨ
Thế hệ cũ tỏ thái độ chống CNCS vì họ là những người trực tiếp chịu sự khủng bố và kìm kẹp của chính quyền CS và họ không chấp nhận tính phi đạo đức, nghi kỵ trí thức, và độc quyền chính trị & kinh tế của chủ nghĩa CS. Những người lãnh đạo CS với chủ trương đã vạch ra: triệt để tiêu diệt những mần mống chống đối CNCS gồm những thành phần mà họ đã liệt kê: đảng phái, tôn giáo, trí, phú, địa, hào. Rất nhiều nhân vật quốc gia tài đức đã bị CS sát hại chỉ để CS chiếm địa vị độc tôn trong chính quyền. Họ là những nhà tu hành đức độ, những trí thức tài giỏi, những thương gia mẫn cán, những thành viên trung thành hay cảm tình viên đắc lực của các đảng chống thực dân Pháp; họ là những điền chủ nhân từ, những chức sắc trong làng xóm được tôn kính; họ đã từng hợp tác tích cực với Việt Minh Cộng Sản trong gia đoạn chống Pháp, nhưng rồi lần lượt tất cả đều bị triệt hạ trong chủ trương "răn đe" và "giết lầm còn hơn tha lầm". Sự kiện này đã dẫn đến sự kiệt quệ chất xám (trí htức) khiến đất nước không thể thóat ra khỏi tình trạng chậm tiến. Gần một triệu người Bắc di cư vào Nam sau 1954 và hơn hai triệu người di tản ra ngoại quốc sau 1975 đã nói lên sự bất mãn và ghê tởm chế độ CS. Đại đa số những người ở lại phải câm lặng chịu đựng để được yên sống. Nỗi uất ức, căm hờn đối với chính sách bạo tàn chưa từng có trong lịch sử loài người đã đi vào tim gan, xương tủy, nên ý thức chống Cộng của thế hệ hệ cũ đã làm cho những người thuộc thế hệ cũ ngồi với nhau trong chốc lát là đã muốn trao đổi với nhau những chuyện chính trị trong đó có chuyện chống Cộng. Không phải họ là những người chống Cộng quá khích mà chỉ vì họ đã quá uất ức đối với những thủ đoạn dã man và lừa đảo của tập đoàn lãnh đạo CS. Tất cả đều trông mong có một biến chuyển giải trừ được tai ách CS cho đồng bào được thở hút không khí tự do. Người miền Bắc sau 1954 đã cho biết họ vẫn âm thầm trông ngóng người miền Nam tiến ra Bắc để diệt CS. Sư sụp đổ Nam VN sau 75 đã khiến cho hàng triệu người não nề tuyệt vọng. Ngày nay thì người Việt trong nước lại đặt hy vọng vào những người Việt di tản. CSVN thừa hiểu tâm trạng đó, và họ đã và đang tìm mọi cách để tiêu diệt ý thức chống CS đó.

Ý THỨC CHỐNG CNCS
của THẾ HỆ MỚI
Thế hệ mới ở đây là thế hệ của những thanh niên sinh sau 1975, và hôm nay họ ở vào lứa tuổi trên dưới 25. Họ không có một ý niệm gì sống động đối với chế độ và con người CS. Phần đông các cha mẹ, anh chị em, đã ít nhiều kể cho họ về chính sách độc tài và thối nát của chế độ CS. Bản thân họ cũng tự tìm hiểu qua sách báo, hay qua bè bạn, hoặc qua những chuyến về thăm quê hương. Tuy những thanh niên này phần lớn lo học và ít quan tâm đến chính trị, nhưng tư duy chính trị của họ đã dần dần khai mở thêm trước những sự kiện xẩy ra kích động tới lương tri và trí tuệ như những chính sách diệt chủng, khống chế các dân tộc ít người, đàn áp tôn giáo, bắt bớ các nhà bất đồng chính kiến, và gieo rắc khủng bố toàn cầu, v.v., nên họ đã trở nên thích tìm hiểu những tin liệu chính trị qua internet, báo chí, và những buổi diễn thuyết để tránh tình trạng tư duy lạc hậu. Trong bối cảnh của thế giới chính trị hiện nay, họ không thấy một chút hữu lý nào trong vai trị độc tôn của đảng CS dẫn đến một hệ thống lãnh chúa địa phương quyền lực vô hạn. Càng ngày người ta thấy càng có nhiều thanh niên trí thức tham gia hoạt động chính trị theo hướng của chính họ trong các nỗ lực bảo vệ nhân quyền của các tổ chức nhất là các tổ chức của Liên Hiệp Quốc. Họ đã rút ra được những chân lý của thời đại đối với xã hội CS: chủ nghĩa CS là lỗi thời; chính những phần tử cộng sản kỳ cựu cũng đã muốn thay đổi tư duy; chế độ CS không có dân chủ, tự do thực sự; không thể có những hợp tác tin cậy và an toàn với người CS; và CS không từ bỏ bất cứ phương tiện nào để nhuộm đỏ toàn cầu và vì lợi ích của riêng Đảng CS.

KẾT QUẢ CỦA Ý THỨC CHỐNG CỘNG
Ý thức chống CNCS chỉ chấm dứt khi chế độ CS bị xóa bỏ như ở Liên Xô và các nước Đông Âu thập niên cuối của thế kỷ 20. Trên thế giới chỉ còn bốn nước còn cố bám vào CNCS: Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Hàn, và Cuba vì lo sợ cho sự sống chết của họ hơn là vì lý tưởng. Ý thức chống CNCS của người dân Tây Tạng, Cuba, Hàn quốc, và Việt Nam vẫn tiếp tục bùng cháy ngày một lan rộng, và được nhiều nước cổ võ. Đó chính là lương tâm của thời đại.
Nhiều cuộc thăm dò cho biết thế hệ trẻ Việt Nam đều thương yêu quê hương tuy phần đông họ sinh đẻ ở ngoại quốc. Đó là tiếng gọi của Cội Nguồn trong tâm hoàn mọi dân tộc. Nhưng hình ảnh những miền quê tàn tạ không trường, thiếu nhà thương, lại đầy những cường hào, ác bá tân thời; song song với cuộc sống chen chúc, xô bồ, thiếu vệ sinh và an toàn của các thành phố, và đặc biệt là hình ảnh những người dân tỏ ra sợ hãi chính quyền như bà già sợ cọp dữ, đã làm cho những chuyến về thăm quê cha, đất mẹ đã trở thành những ám ảnh buồn nôn và càng làm cho tâm não của giới trẻ trở thành cương định chán ghét chế độ CS
Cũng cần để ý rằng, ý thức chống Cộng hôm nay của giới trẻ chủ yếu không phải là do các thế hệ trước truyền lại. Thực tế cho thấy tuy có nhiều thanh niên không mấy hưởng ứng lối chống Cộng ồn ào của cha chú, nhưng họ có những suy nghĩ tích cực riêng của họ phát xuất từ những sự kiện thực tế diễn ra trên các nước khác và trong đất nước. Họ hiểu rõ rằng chế độ CS không thể làm cho đất nước phát triển nhiều vì những nguyên động lực cơ bản như ý thức hệ phản tiến hóa, tư hữu bị tứơc đoạt, tư bản bị đãng chiếm hữu; giới trí thức không có môi trường hoạt động; dân chúng không hợp tác trong hầu hết các hoạt động của nhà nước; hàng xuất khẩu thiếu phẩm chất và thiếu thị trường tiêu thụ; và họ cũng nhận ra cái gì thực sự giúp cho thế giới không bị nạn độc tôn chủng tộc, nhuộm đỏ, hay kỳ thị tôn giáo. Đó chính là những nỗ lực phát huy lý tưởng tự do, tinh thần dân chủ, và nhân quyền nhằm tiêu diệt mọi hình thức chuyên quyền độc đoán nó vốn ngự trị trong bản tính ác của những con người quỉ ám. Tuổi trẻ đang cần có những buổi họp mặt được tổ chức thường xuyên để họ nghe các thức giả nói chuyện và trao đổi kinh nghiệm.
Tóm lại, nên nhớ rằng Cuộc Chiến VN chấm dứt vì Hoa Kỳ đã sai một nước cờ trong chính sách giúp Việt Nam Cộng Hào; Hoa Kỳ rút lui có điều kiện chứ không hề thua trận; Quân Lực VNCH thực sự đã không đầu hàng, chỉ buông súng vì tình thế ép buộc; CSHN được hưởng trọn Nam VN nhưng không được tàn sát quân, cán chính VNCH. ý thức chống cộng sẽ tồn tại cho đến khi các chế độ CS sụp đổ. Các thế hệ sẽ nối tiếp nhau trong ý thức đó như những mắt xích xiết chặt và giật đổ các bức tường xã hội chủ nghĩa xuống như đã giật đổ bức tường ô nhục Berlin phân chia Đông và Tây Đức trước đây vậy. Cần bình tĩnh tin tưởng vào lương tri của con người, vào lương tâm của thời đại, và kiên nhẫn trong Cuộc Chiến Mới của Hoa Kỳ nhằm quyết định chiến thắng cuối cùng giữa chính và tà, giữa thiện và ác để thế giới có thể thực sự bước vào kỷ nguyên thanh bình và thịnh vượng chung toàn cầu trên căn bản đa nguyên và đa văn hóa.
*
AZ 8/28/02